Hiệu quả từ chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở Vĩnh Long

06/04/2021
(VBSP News) Thực hiện Quyết định 62/2004/QÐ-TTg ngày 16/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2006 - 2019, tỉnh Vĩnh Long triển khai chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng làm chuyển biến đời sống của người dân và môi trường nông thôn trong tỉnh.
vĩnh long

Trạm cấp nước sạch xã Tân Quới, huyện Bình Tân (Vĩnh Long)

Mục tiêu của chương trình nhằm tạo cơ chế tín dụng để thực hiện Chiến lược Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến năm 2020 theo Quyết định số 104/2000/QÐ-TTg ngày 25/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ. Hộ dân được vay vốn NHCSXH để đầu tư các loại dự án cấp nước sạch và các dự án vệ sinh môi trường nông thôn bảo đảm theo tiêu chuẩn quốc gia, gồm: hố xí hoặc hố xí kèm bể biogas, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm; xử lý nước thải, rác thải khu vực làng nghề nông thôn.
UBND tỉnh Vĩnh Long đã chỉ đạo NHCSXH tỉnh phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các Sở, ngành, các cấp có liên quan tổ chức thực hiện chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
Giai đoạn 2006 - 2019, NHCSXH tỉnh Vĩnh Long đã hỗ trợ cho 116.000 lượt hộ vay với tổng số tiền là 1.061 tỷ đồng để xây dựng 210.000 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. So với trước năm 2006, toàn tỉnh chỉ có khoảng 80.000 - 90.000 hộ được vay và khoảng 120.000 công trình được xây dựng. Với quy trình thủ tục cho vay đơn giản, nhanh chóng, thuận lợi; phương thức cho vay linh hoạt, triển khai rộng rãi đến cấp xã hộ dân nông thôn tiếp cận được nguồn vốn vay, đầu tư xây dựng công trình nước sạch và công trình vệ sinh.
Cùng với các nguồn vốn đầu tư từ các chương trình khác (như: Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững…). Chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đạt được nhiều hiệu quả đáng kể, góp phần nâng cao tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh và nhà tiêu hợp vệ sinh, cải thiện điều kiện sống, sức khỏe và môi trường ở nhiều vùng nông thôn; đồng thời góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới.
Về hiệu quả kinh tế, với việc vay vốn để xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các mô hình cấp nước sạch như: xây bể chứa nước, lu chứa nước… đã giúp cho các hộ gia đình được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh, giảm bớt khó khăn hằng ngày khi đi lấy nước rất xa khu dân cư. Nhiều nơi ở vùng hạn hán nặng, vùng bị nhiễm phèn, vùng bị xâm ngập mặn, người dân không phải mua nước sinh hoạt với giá rất cao, đã giúp các hộ gia đình ở các khu vực này có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế. Chương trình góp phần hình thành nếp sống văn hóa, văn minh, nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường ở tất cả mọi nơi, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; xóa bỏ dần tập quán sinh hoạt lạc hậu, thiếu vệ sinh của người dân nông thôn, của đồng bào dân tộc; hạn chế sự chênh lệch về điều kiện sinh hoạt giữa nông thôn và đô thị, giữa các vùng nông thôn với nhau.
Với việc xây dựng được hơn 106.000 công trình vệ sinh như: nhà tiêu hoặc nhà tiêu kèm bể biogas, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và xử lý nước thải, rác khu vực nông thôn… đã góp phần làm cho môi trường nông thôn, các khu vực công cộng, khu vực làng nghề sản xuất được cải thiện đáng kể, cảnh quan và môi trường “xanh - sạch - đẹp” đang xuất hiện ở nhiều xã, nhiều ấp… Ðóng góp của Chương trình tín dụng NS-VSMTNT có thể thấy rõ nhất qua những con số: Năm 2005 (trước khi thực hiện Quyết định số 62/2004/QÐ-TTg), toàn tỉnh chỉ có khoảng 10.000 hộ dân nông thôn sử dụng nước qua trạm cấp nước (đạt 5,56%) và tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh chỉ đạt 25%. Năm 2006, con số này là 24.740 hộ (đạt 20%) và tỷ lệ người dân sử dụng nước hợp vệ sinh là 38%.
Ðến cuối năm 2019, toàn tỉnh có 99,2% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt chuẩn là 87,9%, tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có nhà tiêu: 82,97%. Trong đó, tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh: 79,18% và tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh: 61,22%), tỷ lệ hộ gia đình khu vực nông thôn có chuồng trại gia súc hợp vệ sinh đạt 65,30%; 100% số trường học mầm non, phổ thông và 100% số trạm y tế xã ở nông thôn có đủ nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh sử dụng tốt… Năm 2020, từ các nguồn vốn do tỉnh đầu tư, Vĩnh Long có thêm 9.936 hộ nông thôn sử dụng nước sạch từ các trạm cấp nước tập trung, nâng tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt chuẩn toàn tỉnh lên 92,13% (tương đương 206.823 hộ).
Năm 2021, tỉnh Vĩnh Long tiếp tục đề nghị Chính phủ cho tỉnh thực hiện chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2021 - 2030. Theo đó, đề xuất Chính phủ điều chỉnh tăng mức cho vay tối đa đối với mỗi loại công trình lên cao hơn mức hiện tại để đảm bảo đầu tư xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn có chất lượng (cụ thể là nâng mức cho vay tín dụng từ 10 triệu đồng/công trình lên 20 triệu đồng/công trình) và mở rộng đối tượng cho vay tín dụng đối với các hộ gia đình cư trú tại các phường, thị trấn, cho vay đối với các công ty, doanh nghiệp đầu tư xây dựng, cải tạo các công trình cấp nước sạch và xử lý môi trường tập trung.
Ðồng thời, tổ chức thực thiện các giải pháp tiếp theo như: Tăng cường kiểm tra, giám sát hộ vay trong việc sử dụng vốn, đảm bảo đúng mục đích, đúng đối tượng nhằm phát huy hiệu quả nguồn vốn và chất lượng tín dụng của chương trình. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, ấp khóm văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng tiêu chí văn hóa đối với các xã đạt chuẩn nông thôn mới. Xây dựng thí điểm mô hình cải tạo cảnh quan sạch - xanh - đẹp tại một số xã xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu. Ngoài ra, cần tăng cường ứng dụng các công nghệ mới trong xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn và nhằm giải quyết cấp nước cho những vùng gặp nhiều khó khăn như vùng bị nhiễm mặn, vùng bị hạn hán, lũ lụt.

Hạnh Lê

Các tin bài khác