Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011 - 2020: 10 NĂM VÀ NHỮNG BƯỚC TIẾN VƯỢT BẬC
Cầu nối hội tụ trí lực giảm nghèo bền vững
Nhìn lại 10 năm thực hiện chiến lược, Chính phủ đã hai lần nâng chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, cùng với đó là số hộ nghèo, cận nghèo tăng lên theo chuẩn mới mang đến áp lực lớn cho NHCSXH trong vấn đề cung ứng tín dụng. Nhận thức và dự báo được rõ những diễn tiến phát triển này, Ban điều hành NHCSXH luôn ý thức được việc huy động và tập trung được các nguồn tài chính là một trong những yếu tố quyết định đến việc thành bại trong việc triển khai tín dụng chính sách xã hội.
Điểm thuận lợi lớn nhất trong giai đoạn này là Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn cho công tác giảm nghèo, quyết liệt chỉ đạo trong việc tập trung nguồn lực lớn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách thông qua NHCSXH. Minh chứng là năm 2017 - năm đầu tiên NHCSXH được bố trí nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, tạo tiền đề cho NHCSXH tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững cũng như nâng cao năng lực tài chính. Nhìn lại cả giai đoạn 2011 - 2020, ngân sách Nhà nước đã cấp 41.204,5 tỷ đồng, trong đó cấp bổ sung 8.270,5 tỷ đồng vốn điều lệ, 12.412 tỷ đồng để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách…
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW) và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW đi vào đời sống đã đưa nguồn vốn nhận ủy thác địa phương trở thành điểm nổi bật trong việc tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội tại địa phương kể từ khi thực hiện Chiến lược phát triển. Đến hết năm 2020 nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH đạt 20.315 tỷ đồng, tăng gấp 8,8 lần so với năm 2010. Bên cạnh đó, hệ thống các TCTD Nhà nước tiếp tục duy trì 2% số dư tiền gửi tại NHCSXH, đưa nguồn vốn này tăng 6,4 lần so với trước thời điểm thực hiện Chiến lược, từ 12.821 tỷ đồng năm 2010 lên 81.462 tỷ đồng.
Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, duy trì nhận tiền gửi tiết kiệm từ người nghèo qua Tổ tiết kiệm và vay vốn, NHCSXH đã tập trung khai thác các nguồn vốn thị trường, đặc biệt là cho ra đời sản phẩm huy động tiền gửi dân cư tại các Điểm giao dịch xã.
Kết quả từ việc thực hiện theo đúng phương châm “Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm” đã làm tăng quy mô tổng nguồn vốn hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH gấp 2,6 lần, từ 90.400 tỷ đồng năm 2010 lên 233.426 tỷ đồng sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển, tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn hoạt động tín dụng chính sách đạt bình quân 10%/năm.
Câu chuyện hội tụ nguồn lực không chỉ trên phương diện vốn mà quan trọng hơn là phương thức quản lý và truyền tải vốn tín dụng chính sách trong thời gian qua. Dây chuyền quản lý và truyền tải vốn giờ không chỉ đặt lên vai các các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác, mà có sự tận lực, tận tâm của chính quyền địa phương. Trong đó việc bổ sung Chủ tịch UBND cấp xã vào Ban đại diện HĐQT NHCSXH cấp huyện đã tạo sự chuyển biến tích cực và đồng đều trên các mặt hoạt động, nâng cao chất lượng hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, đặc biệt của chính quyền cấp xã với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Phương thức ủy thác cho vay qua các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục triển khai có hiệu quả hơn từ năm 2014 với việc NHCSXH cùng các tổ chức này ký kết lại đã gắn kết chặt chẽ 4 nhà: “Ngân hàng; Chính quyền; Tổ chức chính trị - xã hội; Tổ tiết kiệm và vay vốn” chung tay giúp người nghèo và đối tượng chính sách khác. Các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác hiện nay đang phối hợp với NHCSXH tham gia quản lý tới 99,5% tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội.
Đặc biệt, việc thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động Tổ tiết kiệm và vay vốn được ví như “cánh tay nối dài” của NHCSXH trong việc thực hiện tín dụng chính sách, đã góp phần chuyển tải nguồn vốn tín dụng chính sách đến các đối tượng thụ hưởng kịp thời, tiết giảm chi phí, thời gian cho người vay và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tín dụng chính sách xã hội đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Cùng với gần 173 nghìn Tổ tiết kiệm và vay vốn, 10.426 Điểm giao dịch xã hoạt động định kỳ phủ rộng trên hầu hết các thôn, xã, phường, thị trấn trong toàn quốc, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn đã giúp NHCSXH thực hiện hiệu quả phương châm “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, “Giao dịch tại nhà, giải ngân tại xã”.
Những thành quả này một lần nữa minh chứng tính hiệu quả của phương thức quản lý tín dụng chính sách xã hội đặc thù của Chính phủ, đã và đang phù hợp với cấu trúc chính trị của Việt Nam.
Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2011 - 2020, được sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, các Bộ, Ban, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương, NHCSXH là tổ chức được giao nhiệm vụ thực thi tín dụng chính sách xã hội đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội tập trung các nguồn lực, đẩy mạnh thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tín dụng chính sách xã hội thực sự đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Có thể khẳng định tín dụng chính sách xã hội đã đạt hiệu quả tích cực, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, của người nghèo và các đối tượng chính sách khác trong phạm vi cả nước. Hiệu quả của tín dụng chính sách xã hội đã khẳng định phương thức quản lý và mô hình tổ chức quản trị, điều hành, tác nghiệp của NHCSXH là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta; đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của cả xã hội tham gia vào công cuộc giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội”. |
Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo và hội nhập
Cũng chính từ sự “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, câu chuyện thực hiện Chiến lược của NHCSXH không chỉ là những kế hoạch cứng mà được xây dựng chủ động và linh hoạt theo diễn tiến của nền kinh tế, yêu cầu giảm nghèo của quốc gia, đặc biệt là từ nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Tốc độ hội nhập nhanh của nền kinh tế cùng yêu cầu giảm nghèo đa chiều, bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu đã trở thành bài toán mà lãnh đạo NHCSXH cân nhắc, để rồi từ đó hàng loạt các đề xuất chính sách tín dụng mới đã được NHCSXH đề xuất tới NHNN và các Bộ, ngành để tham mưu Chính phủ hoàn thiện chuỗi các chương trình tín dụng mang tính chất kết nối và hỗ trợ người nghèo trên từng nấc thang tiến tới giảm nghèo bền vững.
Kết quả là từ năm 2011 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng mới để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển kinh tế. Từ những chính sách bổ trợ vào hệ thống chương trình giảm nghèo chung như: Cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, cho vay giải quyết việc làm cho đến các chính sách riêng cho từng đối tượng yếu thế, đặc biệt là đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn, đồng bào thiểu số nghèo, đời sống khó khăn ở vùng ĐBSCL… Đặc biệt là các chương trình tín dụng cho vay để ứng phó với biển đổi khí hậu, giảm nghèo bền vững như cho vay đối với người dân chịu ảnh hưởng sự cố môi trường biển… Cùng với đó, NHCSXH cũng tham mưu các Bộ, ngành liên quan hệ thống lại các chương trình tín dụng tránh dàn trải, trùng lắp, nâng mức vay theo nhu cầu thực tế. Đồng thời, NHCSXH luôn chủ động kịp thời sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách tín dụng mới, tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách có nhu cầu và đủ điều kiện được tiếp cận kịp thời.
Song hành với việc mở rộng quy mô, NHCSXH không ngừng tập trung thực hiện củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội. Từ việc chủ động cải thiện chất lượng nợ trong hoạt động hệ thống và trong từng mắt xích trong dây chuyền thực hiện và giám sát cho vay đến việc NHCSXH thành lập Ban Chỉ đạo củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng tại khu vực Tây Nam bộ và các chi nhánh có chất lượng hoạt động thấp, chủ động báo cáo Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc về tình hình thực hiện tín dụng chính sách, đề nghị tăng cường sự quan tâm của các cấp ngành đối với việc triển khai tín dụng chính sách ưu đãi trên địa bàn. Đặc biệt từ năm 2018 đến nay, NHCSXH đã thực hiện giải pháp tăng cường cán bộ có kinh nghiệm năng lực từ Hội sở chính và các chi nhánh tham gia củng cố chất lượng cho các chi nhánh có chất lượng hoạt động yếu, đã góp phần đưa tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống luôn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển là dưới 3%/tổng dư nợ. Đến nay, nợ quá hạn và nợ khoanh chỉ chiếm khoảng dưới 1%/tổng dư nợ, thấp hơn so với mục tiêu của Chiến lược phát triển đề ra.
Dư nợ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mục tiêu Chiến lược phát triển; nguồn vốn tín dụng chính sách tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào DTTS, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt bình quân khoảng 10%/năm. Quy mô tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tăng gấp 2,5 lần, từ 89.462 tỷ đồng năm 2010 lên 226.197 tỷ đồng tại 31/12/2020, với gần 6,4 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, trong đó đối với dư nợ cho vay hộ đồng bào DTTS và miền núi đạt 56.344 tỷ đồng (chiếm 25%/tổng dư nợ), tín dụng chính sách đã đến 100% các xã vùng DTTS và miền núi.
“Kết quả của tất cả những chuyển biến ấy đã khắc sâu vào bức tranh tín dụng chính sách với những gam màu ấm áp. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tiếp tục được đầu tư đến 100% xã phường, thị trấn trên cả nước cho trên 21,5 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn, với doanh số cho vay lên tới 504.565 tỷ đồng. Nguồn vốn đã phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội, góp phần giúp gần 3,7 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho hơn 2 triệu lao động từ Quỹ Quốc gia về việc làm; giúp 1,5 triệu HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 11,6 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; xây dựng gần 43,5 nghìn căn nhà tránh bão, vượt lũ cho hộ gia đình vùng miền Trung và ĐBSCL, gần 327 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách, gần 13 nghìn căn nhà ở xã hội; giúp hơn 43 nghìn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi lao động có thời hạn ở nước ngoài…”. |
Tín dụng chính sách xã hội góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25%; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều đã giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019).
Hiệu ứng từ nguồn vốn tín dụng chính sách trong thời gian tới sẽ còn mạnh mẽ hơn cùng với những trợ lực từ Nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, những thách thức mới đang đặt ra cho NHCSXH khi chuẩn nghèo mới được ban hành, cùng với đó công cuộc hội nhập ngày càng sâu và cả những rủi ro khó lường đoán đang tăng lên. Trong bối cảnh đó, yêu cầu cấp thiết xây dựng một chiến lược mới cho NHCSXH giai đoạn 2021 - 2030. Trong đó yêu cầu nâng cao năng lực tài chính là một yếu tố có tính tiên quyết để NHCSXH có thể làm tốt hơn nữa trọng trách Đảng, Nhà nước giao phó trong bối cảnh mới. Điều này không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của riêng Chính phủ mà cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị chung tay giảm nghèo bền vững, cùng với đó là việc xây dựng chính sách kết hợp với phân bổ nguồn lực hợp lý để gia tăng hiệu quả trên từng chính sách. Với NHCSXH câu chuyện củng cố phương thức quản lý vốn cũng là bài toán cần cân nhắc để nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách trong tương lai.
Bốn định hướng Chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2021 – 2030 Trong thời gian tới, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đan xen, biến đổi khí hậu thiên tai dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhất là dịch Covid-19 còn có thể kéo dài đã và đang tác động sâu sắc đến đời sống của người dân, chênh lệch giàu nghèo và trình độ phát triển giữa một số vùng miền địa phương có xu hướng giãn rộng, nhiều nơi kết quả giảm nghèo chưa bền vững tỷ lệ tái nghèo và phát sinh nghèo còn cao. Vì vậy, để phát huy hơn nữa những kết quả đạt được, tiếp tục phát triển theo hướng tự chủ, ổn định, bền vững và đủ năng lực để thực hiện tốt tín dụng chính sách xã hội sẽ tập trung vào 4 định hướng phát triển lớn: |
Bài và ảnh Việt Hải
Các tin bài khác
- » CHỈ THỊ SỐ 40-CT/TW: Tô đậm thêm tính nhân văn của chính sách tín dụng xã hội
- » NGÀNH NGÂN HÀNG 2020: Khẳng định bản lĩnh giữa khó khăn
- » Mang xuân ấm đến đồng bào cả nước
- » Đảng bộ NHCSXH TW tham dự Hội nghị trực tuyến Báo cáo viên Trung ương tháng 01/2021
- » NHCSXH tỉnh Quảng Nam xây cầu giúp người dân Sóc Trăng
- » Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trúng cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
- » NHNN tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
- » Sức sống mới trên những bản làng Phú Thọ
- » Tạo đà giảm nghèo bền vững
- » Hiệu quả hoạt động các Điểm giao dịch xã ở huyện Kon Rẫy