Nỗ lực đảm bảo ổn định chất lượng tín dụng chính sách tại các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ
Chủ trì Hội nghị có đồng chí Dương Quyết Thắng, Ủy viên HĐQT, Tổng Giám đốc NHCSXH; đồng chí Phạm Văn Thiều, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban đại diện HĐQT NHCSXH tỉnh Bạc Liêu; đồng chí Pham Tiến Nam, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; đồng chí Trần Lan Phương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; đồng chí Huỳnh Văn Thuận, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH, Trưởng Ban chỉ đạo củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng.
Trong những năm qua, với sự phối hợp chặt chẽ, chỉ đạo quyết liệt, linh hoạt, hiệu quả của Ban lãnh đạo NHCSXH, Ban lãnh đạo các tổ chức chính trị xã hội nhận ủy thác cấp Trung ương, lãnh chỉ đạo của cấp ủy chính quyền địa phương các cấp, cùng với sự vào cuộc trách nhiệm, quyết tâm chính trị cao của cán bộ NHCSXH, cán bộ, hội viên các tổ chức chính trị xã hội nhận ủy thác các cấp, hoạt động tín dụng chính sách xã đã hoàn thành xuất sắc, toàn diện các nhiệm vụ chính trị được giao, được Đảng, Nhà nước, các cấp ngành, địa phương ghi nhận đánh giá cao, được nhân dân đông tình ủng hộ. Công tác củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCSXH các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và An Giang có chuyển biến tích cực, hiệu quả.
Trước đó, Đoàn công tác của NHCSXH đã tổ chức khảo sát đánh giá kết quả thực hiện công tác củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng tại 5 tỉnh Tây Nam Bộ (Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang). Thực tế cho thấy những bước chuyển mới về củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng đã tăng lên đáng kể so với năm 2020. Đặc biệt là nhận thức của cấp uỷ chính quyền địa phương và những người dân. Tuy nhiên, Đề án củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng giai đoạn 2021 - 2023 vẫn còn một số chỉ tiêu cần phải đốc thúc cũng như tháo gỡ khó khăn để triển khai trong giai đoạn 2024-2025.
Giai đoạn 2021-2023, Ban chỉ đạo củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng và các đơn vị đã tập trung, quyết liệt nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ theo kế hoạch đề ra. Ban chỉ đạo đã bám sát chỉ đạo của HĐQT NHCSXH, Ban Tổng Giám đốc, chủ động xây dựng kế hoạch bám sát tình hình thực tế tại các địa phương, chỉ đạo sâu sát việc xây dựng và thực hiện giải pháp củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng phù hợp đến từng địa bàn, từng nhóm đối tượng. Ban hành kế hoạch, lộ trình thực hiện và xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng tại 05 chi nhánh; Chỉ đạo các đơn vị thực hiện phòng chống dịch COVID-19 bám sát theo chỉ đạo của NHCSXH Trung ương và của cấp có thẩm quyền nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ kép đảm bảo an ninh, an toàn về con người, tài sản trong đơn vị; Chỉ đạo các đơn vị tiếp tục tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014, Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 và Chỉ thị 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030; Tranh thủ tối đa sự quan tâm của lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/cấp huyện nơi được tăng cường để chỉ đạo thực hiện Đề án; đồng thời tham mưu Tổng Giám đốc triển khai thực hiện và chỉ đạo các đơn vị thực hiện đồng bộ các giải pháp củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Ban chỉ đạo củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, giai đoạn 2021-2023 chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHCSXH các tỉnh: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Tại Bạc Liêu, tổng nguồn vốn đạt 3.061,4 tỷ đồng, tăng 901 tỷ đồng so với 31/12/2020; trong đó, nguồn vốn nhận ủy thác tại địa phương đạt 193,8 tỷ đồng, tăng 104,4 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt 3.057,4 tỷ đồng, tăng 901 tỷ đồng (tăng 41,8%) so với 31/12/2020 với số khách hàng còn dư nợ 95.393 khách hàng. Trong đó, dư nợ cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đạt gần 355 tỷ đồng với 7.803 khách hàng, đạt 100% kế hoạch được giao.
Tại tỉnh Sóc Trăng, tổng nguồn vốn đạt 5.177,8 tỷ đồng, tăng 1.476,2 tỷ đồng so với 31/12/2020, nguồn vốn nhận ủy thác tại địa phương đạt 192,4 tỷ đồng, tăng 90,9 tỷ đồng. Đến 31/12/2023, tổng dư nợ đạt 5.171,4 tỷ đồng, tăng 1.475 tỷ đồng (tăng 40%) so với 31/12/2020 với số khách hàng còn dư nợ 157.186 khách hàng. Trong đó, dư nợ cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đạt 592 tỷ đồng với 12.062 khách hàng, đạt 100% kế hoạch.
Tại tỉnh Kiên Giang, tổng nguồn vốn đạt 5.885 tỷ đồng, tăng 2.146,4 tỷ đồng so với 31/12/2020. Nguồn vốn nhận ủy thác địa phương 421,4 tỷ đồng, tăng 200 tỷ đồng. Giai đoạn 2021-2023, doanh số cho vay đạt 4.754 tỷ đồng với 129.309 lượt khách hàng vay vốn, doanh số thu nợ đạt 2.593 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt 5.873 tỷ đồng, tăng 2.141 tỷ đồng (tăng 57,4%) so với 31/12/2020 với số khách hàng còn dư nợ 129.309 khách hàng. Trong đó, dư nợ cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đạt 955 tỷ đồng với 10.133 khách hàng, đạt 100% kế hoạch được giao.
Tại tỉnh Cà Mau, tổng nguồn vốn đạt 4.139,4 tỷ đồng, tăng 1.341,3 tỷ đồng so với 31/12/2020. Nguồn vốn nhận ủy thác địa phương 247,5 tỷ đồng, tăng 113,6 tỷ đồng. Doanh số cho vay đạt 2.883 tỷ đồng với 97.276 lượt khách hàng vay vốn, doanh số thu nợ đạt 1.541 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt 4.130 tỷ đồng, tăng 1.337 tỷ đồng (tăng 47,9%) so với 31/12/2020, số khách hàng còn dư nợ 133.991 khách hàng. Trong đó, dư nợ cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đạt 454 tỷ đồng với 10.090 khách hàng, đạt 100% kế hoạch được giao.
Tại tỉnh An Giang, tổng nguồn vốn đạt 4.996,8 tỷ đồng, tăng 1.625 tỷ đồng so với 31/12/2020. Nguồn vốn nhận ủy thác địa phương 299,4 tỷ đồng, tăng 110,4 tỷ đồng. Doanh số cho vay đạt 3.872 tỷ đồng với 102.968 lượt khách hàng vay vốn, doanh số thu nợ đạt 2.217 tỷ đồng. Tổng dư nợ toàn chi nhánh đạt 4.990 tỷ đồng, tăng 1.598 tỷ đồng (tăng 47,1%) so với 31/12/2020, số khách hàng còn dư nợ 152.187 khách hàng. Trong đó, dư nợ cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 đạt 596,8 tỷ đồng với 7.446 khách hàng, đạt 100% kế hoạch được giao.
Giai đoạn 2021-2023, vốn tín dụng chính sách xã hội đã giúp cho gần 186 ngàn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được vay vốn; hỗ trợ, tạo việc làm cho gần 128 ngàn lao động; gần 1,1 ngàn lượt lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp gần 19 ngàn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vay vốn học tập; giải ngân cho 4,5 ngàn hộ gia đình vay vốn mua máy vi tính, thiết bị học tập; xây dựng 349 nghìn công trình nước sạch, công trình vệ sinh; 1.545 căn nhà ở xã hội cho các đối tượng theo Nghị định 100; hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề và phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị cho 2.112 khách hàng là hộ dân tộc vay vốn theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP của Chính phủ.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, các đại biểu cũng đã chỉ ra công tác củng cố nâng cao chất lượng hoạt động, chất lượng tín dụng vẫn còn một số tồn tại, khó khăn, như: Chất lượng hoạt động tín dụng cấp huyện tại một số nơi còn chưa đồng đều. Số Tổ tiết kiệm vay vốn có nợ quá hạn tuy có giảm nhưng chưa thực sự bền vững… Nhiều nguyên nhân được chỉ ra như do khách hàng vay vốn bị rủi ro do nguyên nhân khách quan được địa phương đánh giá đủ điều kiện và lập hồ sơ đề nghị xử lý nợ rủi ro nhưng vẫn đang chờ cấp có thẩm quyền phê duyệt dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng. Diễn biến thất thường của thời tiết, hạn hán, xâm ngập mặn, dịch bệnh kéo dài, ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 gây thiệt hại lớn đến hoạt động sản xuất của người dân, dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ. Một bộ phận người dân chưa có ý thức vươn lên trong cuộc sống, còn tư tưởng trông chờ ỷ lại, không có ý thức tiết kiệm, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng. Qua công tác đối chiếu phân loại nợ, nhiều khách hàng vay vốn đi khỏi nơi cư trú, không có thông tin địa chỉ, không có tài sản tại địa phương, khó khăn trong công tác quản lý và thực hiện xử lý nợ.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Tổng Giám đốc Dương Quyết Thắng yêu cầu Ban chỉ đạo cần có những giải pháp hiệu quả hơn để hiện thực hóa định hướng, nhiệm vụ đề ra trong giai đoạn 2024-2025. Trong đó, Tổng Giám đốc nhấn mạnh 5 chi nhánh cần tiếp tục tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 1630/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội; Quyết định số 05/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030.
Làm tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong triển khai tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, trong đó, tập trung thường xuyên chỉ đạo rà soát điều tra, xác nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác để tạo điều kiện tổ chức giải ngân kịp thời các chương trình tín dụng, đảm bảo 100% khách hàng thuộc đối tượng thụ hưởng, đủ điều kiện vay vốn và có nhu cầu vay đều được đáp ứng vốn phù hợp với phương án đầu tư. Đồng thời, tập trung thực hiện công tác xử lý nợ bị rủi ro do nguyên nhân khách quan đảm bảo đúng đối tượng, kịp thời, công khai minh bạch, chính xác, đúng quy định. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nâng cao chất lượng công tác quản lý và xử lý nợ rủi ro theo quy định.
PV
Các tin bài khác
- » NHCSXH tỉnh Bạc Liêu cần tiếp tục tập trung củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng
- » Hội nghị Ban chấp hành Công đoàn NHCSXH lần thứ 2, khóa V
- » Tín dụng chính sách xã hội nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ
- » Đầu năm về với cội nguồn ngành Ngân hàng
- » Năm 2024: NHCSXH phát triển “tốt quy mô, an toàn chất lượng”
- » Thư chúc mừng năm mới của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- » Lan tỏa Xuân ấm đong đầy yêu thương đến với đồng bào cả nước
- » Ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và NHCSXH
- » Đảng ủy NHCSXHTW tổ chức Hội nghị công bố Quyết định về công tác cán bộ
- » Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng