ThS. Phạm Anh Đức
Giám đốc Ban Kế hoạch nguồn vốn
Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu về giải pháp tăng cường nguồn vốn ngân sách địa phương (NSĐP) ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách (ĐTCS) khác. Trên cơ sở định hướng Chiến lược Phát triển NHCSXH đến năm 2030 và phân tích, đánh giá những thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn ủy thác từ NSĐP tại NHCSXH thời gian qua, tình hình phối hợp tham mưu ban hành các văn bản pháp luật có liên quan, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả tổ chức triển khai thực hiện
Từ khóa: ngân sách địa phương (NSĐP), Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), tín dụng chính sách xã hội (TDCSXH), ủy thác đầu tư, giảm nghèo bền vững.
1. Đặt vấn đề
Qua hơn 20 năm hình thành và phát triển, NHCSXH đã khẳng định vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các chương trình TDCSXH. TDCSXH giữ vai trò quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần trực tiếp vào giảm nghèo bền vững, tạo việc làm và ổn định đời sống nhân dân. Trong những năm qua, nguồn vốn hoạt động của NHCSXH đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của nguồn vốn ủy thác từ NSĐP. Cùng với nguồn vốn Trung ương cấp, nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH đã trở thành cấu phần quan trọng, ngày càng có ý nghĩa then chốt bổ sung nguồn lực cho hoạt động TDCSXH, đồng thời thể hiện trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 40-CT/TW, Kết luận 06-KL/TW và Chỉ thị 39-CT/TW, nhiều địa phương đã quan tâm hơn đến việc bố trí vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thời gian qua cho thấy hoạt động ủy thác vốn từ NSĐP vẫn còn một số hạn chế như: Quy mô nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các ĐTCS khác mặc dù đã có sự tăng trưởng hàng năm, song tốc độ tăng trưởng lại có xu hướng chậm lại; Nguồn vốn ủy thác NSĐP hiện nay cũng đang chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn trong tổng nguồn vốn tín dụng chính sách; Sự cân đối ngân sách giữa các địa phương còn chưa đồng đều; Nguồn vốn bố trí đôi khi chưa đáp ứng đủ nhu cầu; Công tác lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội với tín dụng chính sách chưa đồng bộ; Hiệu quả sử dụng vốn của người vay tại một số nơi còn hạn chế do thiếu kỹ thuật sản xuất hoặc thiếu hoạt động hỗ trợ kèm theo…
Trên cơ sở đó, bài viết đã tập trung nghiên cứu toàn diện thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH trong giai đoạn tới, góp phần đảm bảo nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng an sinh tại các địa phương. Thông qua phương pháp khảo sát chuyên gia, phân tích, so sánh và tổng hợp, nhóm tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát tại 17 tỉnh/thành và khảo sát bằng bảng hỏi đối với các bên liên quan với tổng số 553 phiếu khảo sát nhằm đánh giá thực trạng ủy thác vốn NSĐP sang NHCSXH và nhu cầu vay vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách.
2. Thực trạng nguồn vốn nhận ủy thác từ NSĐP và cho vay từ nguồn vốn ủy thác NSĐP tại NHCSXH
Với việc phân tích, đánh giá thực trạng nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các ĐTCS khác giai đoạn trước và sau khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với TDCSXH; thông qua số liệu thống kê và số liệu thu thập từ khảo sát điều tra, bài viết đã đánh giá được kết quả huy động nguồn vốn ủy thác NSĐP, kết quả cho vay từ nguồn vốn ủy thác NSĐP và đánh giá tác động về mặt hiệu quả kinh tế và xã hội từ nguồn vốn ủy thác NSĐP.
2.1. Khái quát tình hình huy động nguồn vốn ủy thác NSĐP tại NHCSXH
Giai đoạn 2003 - 2014, nguồn vốn ủy thác từ NSĐP sang NHCSXH tăng trưởng chậm, bình quân mỗi năm chỉ đạt khoảng 450 tỷ đồng. Đây là con số tương đối khiêm tốn nếu so với nhu cầu vốn thực tế rất lớn của người dân thuộc diện chính sách trên cả nước. Nguồn vốn ủy thác từ NSĐP sang NHCSXH trong giai đoạn này chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển, có nguồn thu ngân sách lớn, Trong khi đó, nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi, có nhu cầu vốn lớn nhưng nguồn lực ngân sách hạn chế, dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn cho vay, ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Kể từ khi có Chỉ thị 40-CT/TW ngày 22/11/2014 Ban Bí thư Trung ương Đảng, nguồn vốn ủy thác từ NSĐP sang NHCSXH đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Chính quyền các cấp đã chuyển từ nhận thức hỗ trợ sang chủ động bố trí, cân đối ngân sách để bổ sung nguồn vốn vay cho các ĐTCS. Đến 31/12/2025, tổng nguồn vốn ủy thác từ NSĐP ước đạt 63.700 tỷ đồng, tăng 59.892 tỷ đồng so với đầu năm 2015. Hiện nay 100% tỉnh, thành phố trên cả nước đã bố trí NSĐP để ủy thác sang NHCSXH, thể hiện sự cam kết và trách nhiệm của địa phương đối với công cuộc giảm nghèo và an sinh xã hội.
2.2. Khái quát tình hình cho vay từ nguồn vốn ủy thác NSĐP tại NHCSXH
- Giai đoạn 2021-2025, dư nợ cho vay từ nguồn vốn ủy thác NSĐP tăng trưởng bình quân mỗi năm 8.671 tỷ đồng, chủ yếu tập trung vào 08 chương trình TDCSXH, bao gồm: Cho vay hộ nghèo, cho vay hộ cận nghèo, cho vay hộ mới thoát nghèo, cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, cho vay nhà ở xã hội.
Mặc dù, quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ từ nguồn vốn ủy thác NSĐP giai đoạn 2021-2025 ngày càng tăng nhưng xét về tỷ trọng tăng trưởng dư nợ từ nguồn vốn ủy thác NSĐP trong tổng dư nợ chung lại giảm tương đối so với các năm khác trong giai đoạn 2021-2025 do quy mô tăng trưởng tín dụng từ nguồn Trung ương lớn.
- Trong giai đoạn 2021 - 2025, hệ số sử dụng vốn ủy thác NSĐP duy trì ở mức cao, dao động trong khoảng từ 95% đến 98,9%, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn ổn định.
- Tình hình nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn giai đoạn 2021-2025 cũng có nhiều chuyển biến tích cực, phản ánh rõ nét hiệu quả của hoạt động TDCSXH. Dư nợ cho vay tăng đều qua các năm, từ 23.958 tỷ đồng năm 2021 lên 61.176 tỷ đồng năm 2025, tương ứng với mức tăng hơn 2,5 lần, trong khi nợ quá hạn chỉ dao động ở mức rất thấp, từ 12 tỷ đồng năm 2021 lên 22 tỷ đồng năm 2022, 13 tỷ đồng năm 2023 sau đó giảm mạnh còn 5 tỷ đồng năm 2024 và duy trì 12 tỷ đồng năm 2025.
Hoạt động cho vay từ nguồn vốn ủy thác NSĐP tại NHCSXH thời gian qua đã mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, nguồn lực tài chính của địa phương được tập trung vào một đầu mối thống nhất là NHCSXH, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn, tránh tình trạng phân tán và trùng lặp. Nguồn vốn ủy thác từ NSĐP được ưu tiên cho vay đúng đối tượng, kịp thời hỗ trợ người nghèo, hộ cận nghèo, các nhóm yếu thế và hộ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh có điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống. Giai đoạn 2021 - 2025, trung bình mỗi năm có khoảng hơn 246 nghìn hộ nghèo và các ĐTCS được vay vốn tại các địa phương. Nhờ đó, hàng triệu hộ dân thoát nghèo, nhiều mô hình sinh kế hiệu quả được nhân rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại cơ sở. Đồng thời, việc cho vay ủy thác còn tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong công tác giảm nghèo, thể hiện sự gắn kết giữa NSNN và TDCSXH, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
3. Đánh giá thực trạng nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác
3.1. Những kết quả đạt được
- Nguồn vốn ủy thác từ NSĐP trở thành cấu phần quan trọng bổ sung cho nguồn vốn TDCSXH. Đến cuối năm 2025, nguồn vốn này dự kiến đạt khoảng 63.700 tỷ đồng, chiếm khoảng 14,9% tổng nguồn vốn NHCSXH. Điều đó thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn.
- Nguồn vốn ủy thác từ NSĐP là công cụ linh hoạt, góp phần mở rộng phạm vi thụ hưởng đến các vùng khó khăn, tạo cầu nối hiệu quả giữa chính sách trung ương và thực tiễn địa phương. Qua đó hỗ trợ triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia một cách đồng bộ.
- Việc giao NHCSXH quản lý và cho vay nguồn NSĐP thể hiện chủ trương đúng đắn, giúp huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội và chính quyền các cấp trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
- Tập trung nguồn lực về NHCSXH góp phần chuyên nghiệp hóa quản lý vốn, khắc phục tình trạng phân tán, tăng cường kiểm soát rủi ro và bảo đảm vốn được chuyển đến đúng đối tượng; thể hiện chủ trương tách bạch tín dụng chính sách khỏi tín dụng thương mại, phù hợp thông lệ quốc tế và đảm bảo sự ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng.
- Tín dụng chính sách, bao gồm vốn ủy thác, đã hỗ trợ thực hiện đồng bộ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội như tạo việc làm, hỗ trợ học sinh sinh viên, cải thiện nhà ở, phát triển kinh tế hộ, thu hẹp chênh lệch vùng miền, góp phần đẩy lùi tín dụng đen, giúp người dân tiếp cận vốn an toàn để đầu tư sản xuất và cải thiện đời sống.
3.2. Những tồn tại, hạn chế
- Quy mô và tỷ trọng nguồn vốn ủy thác NSĐP trong tổng số nguồn vốn TDCSXH vẫn còn ở mức khá khiêm tốn, chưa đạt mục tiêu theo Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030.
- Trước khi Luật đầu tư công năm 2019 chưa được sửa đổi thì khung pháp lý và văn bản hướng dẫn vẫn còn một số vướng mắc trong quá trình thực hiện như: Luật Đầu tư công năm 2019 chưa quy định rõ về nguồn vốn ủy thác từ NSĐP là đối tượng đầu tư công; Chưa có văn bản xác định thẩm quyền của các cơ quan Trung ương trong chỉ đạo, hướng dẫn cơ chế ủy thác vốn qua NHCSXH…
- Khó khăn trong cân đối NSĐP cũng là thách thức không nhỏ. Một số địa phương cân đối, bố trí nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn còn chưa tương xứng với tiềm lực phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Nguồn vốn ủy thác NSĐP chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do vậy, một số chương trình TDCS hiện mức cho vay tối đa còn thấp như chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm, mức cho vay tối đa chỉ là 100 triệu đồng/lao động, trong khi kết quả khảo sát cho thấy đa số khách hàng có nhu cầu vay trên 100 triệu đồng để đáp ứng yêu cầu đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Thông qua việc phân tích thực trạng nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các ĐTCS khác trong giai đoạn 2021 - 2025, bài viết đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế về khung pháp lý, về khó khăn trong cân đối NSĐP cũng như nguồn vốn ủy thác NSĐP chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của khách hàng. Từ thực tiễn đó, khẳng định sự cần thiết phải tăng cường hơn nữa nguồn vốn ủy thác từ NSĐP, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn và phát huy vai trò chủ động của chính quyền địa phương trong phát triển TDCSXH, tạo cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp.
4. Một số giải pháp tăng cường nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
Trên 90% Chủ tịch/Phó Chủ tịch UBND tỉnh được khảo sát cho rằng, để bảo đảm đủ nguồn lực cho vay hộ nghèo và các ĐTCS khác, bên cạnh vốn Trung ương và vốn huy động của NHCSXH, các địa phương cần tăng cường bổ sung vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH. Trên cơ sở đó, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất 06 nhóm giải pháp trọng tâm sau:
Một là: Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các quy định liên quan đến nguồn vốn từ NSĐP uỷ thác sang NHCSXH
Qua rà soát hệ thống pháp lý hiện hành, nhóm tác giả nhận thấy có quy định thẩm quyền của HĐND trong quyết định bố trí vốn NSĐP và trách nhiệm của UBND tỉnh trong quy định điều kiện, nội dung, mức cho vay ưu đãi nhưng chưa có quy định cụ thể coi nguồn vốn NSĐP ủy thác là đối tượng đầu tư công, cũng như chưa xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng và các bộ, ngành trong việc hướng dẫn địa phương thực hiện ủy thác vốn NSĐP qua NHCSXH.
Từ thực tế này, nhóm đã đề xuất, tham mưu một số giải pháp, trong đó có giải pháp đã được ứng dụng cụ thể như:
- Chỉ đạo của Đảng, Chính phủ tại Chỉ thị số 39-CT/TW và Quyết định số 1560/QĐ-TTg yêu cầu các địa phương “tiếp tục quan tâm bố trí NSĐP ủy thác sang NHCSXH, phấn đấu đến năm 2030 đạt 15% tổng nguồn vốn”. Để thực hiện nội dung này, cấp uỷ, chính quyền địa phương cần cân đối, bố trí vốn NSĐP uỷ thác sang NHCSXH hàng năm/trung hạn để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác trong nghị quyết HĐND tỉnh phấn đấu đến năm 2030 đạt 15% tổng nguồn vốn.
- Quy định về “Đối tượng đầu tư công: Bố trí vốn NSĐP để thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi thông qua NHCSXH chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” đã được quy định tại khoản 7, Điều 5, Luật đầu tư công năm 2024 số 58/2024/QH15 và cụ thể hoá nhiệm vụ chi của NSĐP “Nhiệm vụ chi của NSĐP từ nguồn chi đầu tư phát triển: Cấp bù chênh lệch lãi suất, phí quản lý và ủy thác cho vay qua ngân hàng chính sách để thực hiện các chính sách kinh tế - xã” tại điểm b, khoản 6, Điều 4, Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NSNN.
- Rà soát, sửa đổi các quy định quản lý nguồn vốn nhận uỷ thác phù hợp với các văn bản pháp quy hiện hành và phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Những điều này đã tạo hành lang pháp lý về các quy định liên quan đến nguồn vốn NSĐP uỷ thác sang NHCSXH để cho vay người nghèo và các ĐTCS khác, tạo điều kiện cho các địa phương chủ động hơn trong việc cân đối bố trí vốn, quản lý vốn và nâng cao hiệu quả nguồn vốn.
Hai là: Xây dựng kế hoạch vốn và Chương trình/Đề án tín dụng chính sách tại địa phương
- Xây dựng kế hoạch vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH: NHCSXH cấp tỉnh cần phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành để lập kế hoạch vốn ủy thác trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm.
- Xây dựng Chương trình/Đề án tín dụng chính sách gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội: NHCSXH cấp tỉnh cần chủ động phối hợp các sở, ngành xây dựng Chương trình/Đề án tín dụng chính sách phù hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, 10 năm và các chương trình mục tiêu quốc gia. Đề án phải xác định rõ mục tiêu, đối tượng, nguồn lực, cơ chế cho vay, kế hoạch thực hiện và tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội, làm cơ sở để UBND và HĐND tỉnh phê duyệt và triển khai.
Ba là: Phát huy vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH của địa phương
- Tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo và huy động nguồn lực: Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với tín dụng chính sách xã hội, đưa hoạt động này vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành, NHCSXH, đồng thời bố trí nguồn vốn NSĐP ủy thác qua NHCSXH và triển khai công tác tuyên truyền, giám sát để nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận xã hội.
- Kết hợp tín dụng với đào tạo, chuyển giao công nghệ và mô hình phát triển kinh tế: Phối hợp giữa NHCSXH, các sở ngành, tổ chức chính trị - xã hội để đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, gắn vốn vay với phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp công nghệ cao, OCOP và các dự án giảm nghèo bền vững, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng thu nhập người dân.
- Củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng và nhân rộng mô hình điển hình: Tăng cường giám sát, đánh giá, hướng dẫn sử dụng vốn, củng cố tổ TK&VV, kiểm soát nợ quá hạn và xây dựng các mô hình sinh kế, kinh doanh điển hình để hộ nghèo, cận nghèo từng bước thoát nghèo, lan tỏa kinh nghiệm, nâng cao hiệu quả và uy tín của tín dụng chính sách xã hội.
Bốn là: Chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách
- Chuẩn hóa quy trình kiểm tra, giám sát: NHCSXH xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát vốn vay trước, trong và sau khi cho vay; phối hợp chặt chẽ với tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương giám sát nợ vay, đảm bảo vay đúng đối tượng, đúng mục đích; tăng cường đào tạo cán bộ kiểm tra tại cơ sở; rà soát, hoàn thiện quy trình kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng tín dụng.
- Tiếp tục rà soát, đơn giản hoá thủ tục hành chính đối với hoạt động cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác để thủ tục cho vay ngày càng thuận lợi, đơn giản phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp hiện nay.
Năm là: Ban hành chuẩn nghèo riêng và quy trình xác nhận: Xây dựng chuẩn nghèo đa chiều, tiêu chí phân loại, quy trình xác nhận đối tượng; các cấp chính quyền và Ban đại diện HĐQT NHCSXH chịu trách nhiệm rà soát, xác định đúng đối tượng thụ hưởng để nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách.
Sáu là: Ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa ngân hàng đem lại tiện ích cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác
- Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng - Nâng cấp Intellect Core Banking hướng tới mô hình ngân hàng số toàn diện: Phát triển, đa dạng hóa dịch vụ trên ứng dụng Mobile Banking; Tích hợp nghiệp vụ tín dụng chính sách lên nền tảng số; Hoàn thiện ứng dụng “Quản lý tín dụng chính sách tại xã” trên thiết bị di động; Phát triển tính năng thanh toán và giao dịch trực tuyến; Tăng cường an ninh, an toàn hệ thống thông tin.
- Hỗ trợ và phát triển khách hàng: Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục tài chính số; Tổ chức đào tạo, hướng dẫn trực tuyến; Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho hộ vay; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (Big Data); Nâng cao an toàn, bảo mật cho người dùng.
Nguồn vốn NSĐP ủy thác sang NHCSXH giữ vai trò then chốt trong việc bổ sung nguồn lực cho tín dụng chính sách xã hội, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của người nghèo và các đối tượng chính sách, qua đó đóng góp quan trọng vào giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình triển khai vẫn còn những hạn chế về quy mô và tỷ trọng vốn, về cơ chế, khung pháp lý, về cân đối NSĐP. Các giải pháp được đề xuất như củng cố, hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, xây dựng kế hoạch vốn, gắn kết tín dụng chính sách xã hội với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ đến đẩy mạnh ứng dụng công nghệ nhằm tạo nền tảng tăng cường và nâng cao hiệu quả nguồn vốn ủy thác trong thời gian tới. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này sẽ góp phần thực hiện thắng lợi các Chương trình Mục tiêu quốc gia, Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 và củng cố tính bền vững của tín dụng chính sách xã hội, nâng cao hiệu quả hỗ trợ người dân và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện.