Tọa đàm “Tín dụng chính sách vùng Tây Nam bộ, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội”
Bên cạnh những kết quả đạt được, nguồn vốn tín dụng cũng đứng trước nhiều thách thức như việc bố trí vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 còn nhiều khó khăn; cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự phù hợp, chưa tạo được tính ổn định, bền vững cho hoạt động của NHCSXH.
Với chủ đề “Tín dụng chính sách vùng Tây Nam bộ, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội”, chương trình tọa đàm trực tuyến do Báo Đại biểu Nhân dân phối hợp với NHCSXH tổ chức nhằm trao đổi, thu nhận ý kiến ĐBQH, chuyên gia, nhà quản lý, cử tri về kết quả triển khai các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đối với NHCSXH; khẳng định vai trò của vốn tín dụng đối với giảm nghèo bền vững, nhất là khu vực Tây Nam bộ; đồng thời làm rõ vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của nhân dân nhằm thực thi pháp luật tín dụng chính sách.
Các khách mời tham gia Tọa đàm gồm: Ông Nguyễn Hữu Quang - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội; Ông Bùi Sĩ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội; Ông Phạm Văn Hòa - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp; Ông Nguyễn Thanh Xuân - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ; Ông Võ Minh Hiệp - Phó Tổng Giám đốc NHCSXH.
Vai trò của tín dụng chính sách trong giảm nghèo bền vững ở vùng Tây Nam bộ
Chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo và các đối tượng chính sách để phát triển sản xuất là một cấu phần quan trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của Việt Nam. Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, vùng đồng bào DTTS.
MC: Thưa ông Võ Minh Hiệp - Phó Tổng Giám đốc NHCSXH, tín dụng chính sách có vai trò là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước, giúp hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, tạo việc làm, cải thiện điều kiện sống và nâng cao thu nhập. Xin ông đánh giá những nét cơ bản nhất về vai trò của tín dụng chính sách đối với việc giảm nghèo của đất nước?
Ông Võ Minh Hiệp: Sau gần 15 năm thành lập và đi vào hoạt động của NHCSXH, được sự quan tâm, chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ của người nghèo và các đối tượng chính sách, cũng như sự nỗ lực của tập thể cán bộ, viên chức NHCSXH trong toàn hệ thống, NHCSXH thời gian qua đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, thực hiện tốt mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra ban đầu, cụ thể:
Một là tập trung được nguồn lực lớn tạo bước đột phá trong công tác giảm nghèo. Hai là nâng cao chất lượng và hiệu quả của nguồn vốn tín dụng chính sách. Ba là tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại. Bốn là huy động lực lượng toàn xã hội tham gia vào sự nghiệp xóa đói giảm nghèo. Năm là góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Với 5 mục tiêu ban đầu của Chính phủ đặt ra, đến nay, NHCSXH đã chuyển tải đến các đối tượng thụ hưởng 163.809 tỷ đồng với gần 6,8 triệu người nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn.
Trong 15 năm qua đã có hơn 31 triệu lượt người nghèo và các đối tượng chính sách được vay vốn từ NHCSXH với tổng doanh số cho vay là trên 410.000 tỷ đồng tín dụng chính sách, góp phần giúp trên 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm mới cho gần 3,4 triệu lao động, trong đó trên 110 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; giúp trên 3,5 triệu HSSV có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 9,4 triệu công trình cung cấp nước sạch, công trình vệ sinh ở nông thôn; trên 11 nghìn căn nhà tránh lũ cho hộ nghèo tại các tỉnh miền Trung; gần 105 nghìn căn nhà vượt lũ cho hộ gia đình vùng đồng bằng sông Cửu Long và gần 500 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách chưa có nhà ở trên toàn quốc…
Thông qua việc triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách của NHCSXH đã góp phần hiệu quả trong việc thực hiện các chương trình mục tiêu về giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, xây dựng nông thôn mới, phát triển nguồn nhân lực, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Thứ hai là tập hợp lực lượng phát triển hội viên cho các tổ chức chính trị xã hội cùng tham gia chuyển tải vốn tín dụng chính sách trên địa bàn cả nước.
Thứ ba là thực hiện nhiệm vụ ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn.
Thứ tư là thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, đặc biệt là ở các vùng DTTS, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo, việc cho vay vốn tín dụng chính sách của NHCSXH đã được phối hợp chặt chẽ để các tổ chức đoàn thể xã hội và các đối tượng chính sách thụ hưởng, thực hiện nhiệm vụ vừa phát huy kinh tế, vừa tham gia ổn định chính trị vùng biên giới ở Tây Nam bộ.
Tín dụng chính sách đã góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo trong giai đoạn 2005 - 2010 từ 22% xuống còn 9,45%, giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống còn 4,2%. Qua gần 15 năm hoạt động, các tổ chức của Chính phủ như thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước… đã xác nhận sự nỗ lực cố gắng của NHCSXH, đặc biệt bảo đảm vốn an toàn tài sản của nhà nước giao cho NHCSXH để chuyển tải tới các đối tượng chính sách, đúng đối tượng, có hiệu quả, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững quốc gia, cũng như mục tiêu giảm nghèo bền vững của từng địa phương.
MC: Thưa ông Nguyễn Hữu Quang - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính và Ngân sách, theo ông, dòng vốn từ NHCSXH đã mang lại những chuyển biến tích cực như thế nào cả về kinh tế cũng như ổn định đời sống văn hóa, giáo dục cho những đối tượng chính sách trên cả nước?
Ông Nguyễn Hữu Quang: Vào cuối tháng 3 vừa qua, Ủy ban Tài chính và Ngân sách đã có một buổi làm việc với NHCSXH với mục đích khảo sát tình hình hoạt động của ngân hàng để phục vụ cho công tác thẩm định, phân bổ vốn đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020. Thông qua buổi làm việc, chúng tôi rất phấn khởi vì những kết quả NHCSXH đã đạt được trong thời gian vừa qua.
Như chúng ta biết, NHCSXH là một tổ chức tín dụng của Nhà nước, có hệ thống tổ chức từ Trung ương xuống tỉnh, huyện, xã và đến nay đã thành lập được hơn 11.000 Điểm giao dịch trên cả nước. Có thể nói, đây là một hệ thống tín dụng có mạng lưới hoạt động sâu rộng trên toàn quốc. Và kết quả đạt được trong thời gian vừa qua có thể nói, đây là một kết quả rất tích cực về thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công tác xóa đói giảm nghèo.
Bên cạnh những hiệu quả về kinh tế - xã hội, hoạt động tín dụng của Ngân hàng được nâng cao, chúng tôi cũng quan tâm đến khía cạnh kinh tế của ngân hàng. So với thời điểm bàn giao từ Ngân hàng NNo&PTNT, sau 15 năm công tác quản lý nợ và phòng ngừa nợ xấu thì NHCSXH làm tương đối tốt. Có thể nói, NHCSXH được đánh giá là một tổ chức tín dụng hoạt động có hiệu quả trong việc góp phần thực hiện các chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng khác thực sự đi vào cuộc sống, được người dân đồng tình ủng hộ và thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu công bằng xã hội, giúp cho những người yếu thế trong xã hội tiếp cận được những dịch vụ như y tế, giáo dục… Đồng thời, qua các hoạt động của NHCSXH, những người làm chính sách chúng tôi cũng có thêm các thông tin để tư duy, nghiên cứu và xây dựng những chính sách mới thiết thực hơn, gắn với nhu cầu của các đối tượng chính sách, góp phần giảm nghèo một cách bền vững và nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân, đặc biệt là các hộ nghèo.
MC: Thưa ông Bùi Sĩ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội, tín dụng chính sách của Chính phủ giao cho NHCSXH triển khai thực hiện được 1,5 thập kỷ qua đã góp phần tích cực trong việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững như thế nào? Đồng vốn đã tác động trực tiếp đến đời sống người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và sự phát triển KT - XH của đất nước ra sao?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Hệ thống an sinh xã hội của chúng ta hiện nay có 4 trụ cột cơ bản. Trụ cột đầu tiên mà chúng tôi gọi đó là trụ cột về phòng ngừa để làm sao bảo đảm cho người dân không rơi vào điều kiện, hoàn cảnh khó khăn. Trụ cột thứ hai là trụ cột giảm thiểu rủi ro. Thứ ba là phải khắc phục được rủi ro. Cuối cùng là bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản, tối thiểu bao gồm giáo dục, y tế, nhà ở, nước sinh hoạt và thông tin truyền thông.
Vậy tín dụng người nghèo nằm ở chỗ nào? Tôi phải khẳng định rằng, chính sách xã hội bao trùm lên an sinh xã hội. Giảm nghèo cũng không phải là chính sách an sinh xã hội, nhưng nó tác động, quyết định đến vấn đề an sinh xã hội của đất nước.
Nhưng giảm nghèo của chúng ta được xếp trong các chương trình phòng ngừa, mà trụ cột phòng ngừa chính là chúng ta giải quyết tín dụng cho vay đào tạo, dạy nghề, giải quyết vấn đề việc làm, không để cho người dân rơi vào tình trạng không có thu nhập dẫn đến không có việc làm.
Có thể nói, sau 15 năm đánh giá một chặng đường rất dài trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của đất nước ta, chúng ta đã trải qua 6 chuẩn nghèo. Từ khi chúng ta còn xác định chuẩn nghèo, lương thực thực phẩm tương đương 120 nghìn đồng tiền lương tối thiểu thì đến nay, chúng ta đã thay bằng chuẩn nghèo đa chiều, trong đó xác định tiêu chí về thu nhập ở khu vực nông thôn là 700.000 đồng/người/tháng và ở khu vực thành thị 900.000 đồng/người/tháng. Đây được đánh giá một sự thay đổi cả về lượng và chất. Lượng là tiêu chí về thu nhập xác định hộ nghèo cao hơn và chất chúng ta làm cho người dân biến đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống của người dân, thì đây là khẳng định đầu tiên trong tín dụng giảm nghèo của đất nước.
Thứ hai, Việt Nam chúng ta sau 30 năm đổi mới, đặc biệt là 15 năm gần đây, chúng ta thực hiện cho vay tín dụng về giảm nghèo bền vững thì chúng ta đã được Liên Hiệp Quốc đánh giá là một trong những quốc gia thành công trong công cuộc xóa đói giảm nghèo và là một nước được đánh giá thực hiện mục tiêu thiên nhiên kỷ về trước so với thế giới. Chúng ta đặc biệt được đánh giá hoàn toàn xóa bỏ nghèo cùng cực từ năm 2012, đây là một thành tựu rất lớn. Và từ một quốc gia có trên 50% dân số thuộc diện nghèo đói và có cả nghèo đói cùng cực, đến nay chúng ta đã trở thành một quốc gia ở mức thu nhập trung bình. Và đến hôm nay, chúng ta rất tự hào khi bình quân thu nhập đầu người tính trên GDP là 2.300 USD.
Thứ ba, tín dụng chính sách do NHCSXH thực hiện là giải pháp sáng tạo của Đảng và Nhà nước và có tính nhân văn sâu sắc, phù hợp với đặc điểm, tình hình, ý nguyện của đất nước chúng ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư, tín dụng của NHCSXH là một “điểm sang” trong tất cả các chính sách để thực hiện giảm nghèo bền vững của đất nước chúng ta trong 15 năm qua, đời sống người dân được nâng cao, bảo đảm được an sinh xã hội và ổn định chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta giảm được sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền. Bên cạnh đó, tập trung được nguồn lực do ghép vốn chương trình quốc gia giải quyết việc làm với chương trình giảm nghèo kết hợp thành giải quyết việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo.
Thứ năm, tổng nguồn lực của chúng ta cho vay đến giờ phút này có thể khẳng định rằng hoàn toàn có đủ điều kiện để chúng ta đáp ứng yêu cầu của người nghèo, cận nghèo và những hộ vừa thoát nghèo có đủ điều kiện và có nguồn vốn để vay giải quyết việc làm. Nếu chúng ta xử lý vấn đề nghèo đói thoát nghèo đói mà chúng ta lại không tiếp tục củng cố thêm một thời gian thì không khác gì người bệnh chữa bệnh chưa khỏi hẳn đã bỏ giữa chừng!
MC: Thưa ông Phạm Văn Hòa - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp. Là một tỉnh còn nhiều vùng khó khăn, ngân sách TW cấp thông qua hệ thống NHCSXH để cho vay đối tượng chính sách trên địa bàn, nhưng tôi được biết tỉnh Đồng Tháp còn trích ngân sách địa phương chuyển sang NHCSXH tỉnh để cho vay một số đối tượng trên địa bàn. Ông có thể chia sẻ về cách làm của Đồng Tháp?
Ông Phạm Văn Hòa: Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh của Đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh còn gặp khó khăn. Dân số khoảng 1,7 triệu dân, thu nhập đầu người ở Đồng Tháp không lớn lắm. Tỷ lệ hộ nghèo cách đây 15 năm chiếm 20% nhưng đến nay tỷ lệ này giảm xuống còn dưới 10%… Đây là một kết quả quan trọng trong công tác giảm nghèo thời gian qua, trong đó có vai trò của chính sách tín dụng để giảm nghèo bền vững theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Nguồn vốn chính sách tín dụng tại tỉnh gồm 2 nguồn: một là nguồn vốn từ NHCSXH của Trung ương, nguồn vốn thứ hai là nguồn vốn huy động trong dân. Hàng năm, Đồng Tháp thu ngân sách 4 - 5 nghìn tỷ đồng, nên chuyển nguồn vốn từ ngân sách sang NHCSXH cũng là vấn đề khó khăn trong thời gian qua. Nhưng chúng tôi cũng được giữ vững được nguồn vốn này. Nói là “xé rào” thì không đúng nhưng đây là chủ trương lớn, chính sách rất nhân văn đối với những hộ nghèo, hộ cận nghèo giúp họ giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, cho học sinh viên vay để học tập…
Từ chủ trương của Tỉnh ủy, thông qua HĐND tỉnh biểu quyết, hàng năm tỉnh trích một phần nguồn vốn này từ ngân sách, hạn chế các nguồn chi khác chuyển qua NHCSXH hàng năm khoảng 20 tỷ đồng. Hiện nay, tổng nguồn vốn dư nợ khoảng 2.700 tỷ đồng trong đó nguồn vốn từ ngân sách của tỉnh khoảng 180 tỷ đồng. Đây cũng là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với những hộ nghèo, cận nghèo, những hộ khó khăn trong tỉnh mình chủ động làm.
Hiện nay, nợ quá hạn trung bình cả nước là 0,5% nhưng Đồng Tháp tổng dư nợ là 0,3%. Đây là điểm sáng, khả năng thu hồi vốn lớn. Ngoài vốn của Ngân sách, huy động vốn của dân, doanh nghiệp tập trung vào thì mỗi điểm xã, phường đều có điểm giao dịch. Theo quy định của tỉnh từ 23 - 25 hàng tháng, mỗi điểm giao dịch tới NHCSXH của huyện cử giám đốc, kế toán, thủ quỹ đến xuống Điểm giao dịch để thu trả lãi, các tổ tiết kiểm cho vay vốn đến ngày đó thì đem đến điểm đó để trả lãi. Tuy nhiên cũng có hộ quay vòng trả lãi và vốn luôn. Với những hộ muốn vay thêm thì NHCSXH cũng xem xét cho đáo hạn để họ tiếp tục thực hiện sản xuất, vay hộ nghèo, vay xuất khẩu lao động. Trường hợp này không nhiều bởi nguồn vốn có hạn trong khi nhu cầu vay của chúng ta rất lớn. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể mới cho xem xét đáo hạn để họ tiếp tục phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt các hộ đã thoát nghèo. Trước đây, mỗi hộ cho vay tối đa 30 triệu đồng nhưng nay có thêm 50 triệu đồng.
MC: Thưa ông Nguyễn Thanh Xuân - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH thành phố Cần Thơ. Cần Thơ có ủng hộ cách làm của Đồng Tháp là tăng cường nguồn vốn từ ngân sách địa phương cho NHCSXH không? Và Cần Thơ thực hiện vấn đề này như thế nào?
Ông Nguyễn Thanh Xuân: Đối với Cần Thơ thì chúng tôi thấy rằng, những việc Cần Thơ đã thực hiện vừa qua, cũng như những kinh nghiệm việc làm của Đồng Tháp, Cần Thơ cũng là một trong những đơn vị đồng hành. Hiện nay, chúng tôi đã giải ngân từ vốn tín dụng chính sách cho 184 nghìn lượt đối tượng hộ nghèo với số dư nợ là 290 tỷ đồng và dư nợ tăng nhanh qua các năm. Trong khi tỷ lệ nợ quá hạn của Đồng Tháp là còn 0,3%, còn Cần Thơ 0,35%. Như vậy giảm so với 2011 giảm được 3,78%.
Ngoài nguồn ngân sách của Trung ương đưa xuống thì để làm được những việc như những con số mà tôi nói ở trên, thì ngân sách từ Thành phố chuyển sang ủy thác cho ngân hàng, ủy thác cho các tổ chức đoàn thể số dư hiện nay là 120 tỷ đồng. Đây là một sự phấn đấu rất lớn. Chúng tôi không chỉ phục vụ cho đối tượng người nghèo ở địa bàn dân cư vay vốn mà còn thực hiện rất nhiều chương trình khác như: bảo tồn chợ nổi Cái Răng mà đối tượng ở đây cũng là hộ nghèo, hộ cận nghèo; bảo tồn các làng nghề truyền thống mà đối tượng tham gia ở đây cũng là người nghèo; phát triển du lịch sinh thái nên ngân sách phải dành một phần để chuyển sang NHCSXH.
Kết quả việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại NHCSXH
MC: Thưa ông Võ Minh Hiệp, ông có thể cho biết những kết quả đạt được của NHCSXH trong thực hiện đưa vốn tín dụng chính sách đến với người nghèo vùng Tây Nam bộ thời gian qua?
Ông Võ Minh Hiệp: Có thể nói vùng Tây Nam bộ của chúng ta có thế mạnh rất rõ về sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản. Cùng với nhiều tiềm năng, thế mạnh phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp thực phẩm, phát triển du lịch, Tây Nam bộ là vùng sản xuất lương thực trọng điểm quốc gia. Tuy nhiên, Tây Nam bộ cũng là khu vực có rất nhiều khó khăn, thách thức do địa hình bị chia cắt bởi kênh rạch và thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến đổi khí hậu, lũ lụt, hạn hán và xâm ngập mặn. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn còn rất cao. Theo đánh giá của giai đoạn 2016 - 2020 đến nay còn khoảng 15% hộ nghèo, diện tái nghèo cũng còn thách thức, nguy cơ tái nghèo khá lớn. Trong những năm qua, có sự nỗ lực của địa phương, sự quan tâm của Trung ương, khu Tây Nam bộ đã có sự thay đổi tích cực.
Riêng khu vực Tây Nam bộ thì chất lượng tín dụng trong những năm trước đây chúng tôi tạm gọi là vùng trũng, tức là chất lượng thấp. Nhưng sau một thời gian triển khai những nhiệm vụ, có sự phối hợp chặt chẽ của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ và chính quyền các cấp ở khu vực, từ năm 2011 - 2012, trong 13 tỉnh, thành phố thì 12 tỉnh, thành phố có chất lượng tín dụng thấp đã xây dựng đề án nâng cao chất lượng tín dụng. Qua đó, đến nay, chất lượng tín dụng còn thấp hơn mức bình quân chung cả nước. (Bình quân chung cả nước là 0,42% thì khu vực Tây Nam bộ là 0,35%). Chính từ điều đó cũng cho thấy sự quan tâm của chính quyền địa phương rất là mạnh mẽ để hệ thống chính trị cùng NHCSXH thực hiện nhiệm vụ của mình ở địa phương. Cho nên, riêng khu vực Tây Nam bộ, dù sông nước chia cắt, các xã, phường, thị trấn trong cả vùng đều thành lập điểm giao dịch xã để đưa tín dụng ưu đãi xuống tận người dân ở xã. Cứ những ngày cố định như anh Hòa nói giống như ngày hội, dân đến với chính quyền để giao dịch, từ đó tạo điều kiện hơn cho người dân. Đến nay, khu vực Tây Nam bộ đã xây dựng được 1.581 Điểm giao dịch xã của 118 NHCSXH cấp huyện phục vụ cho người dân và gần 40.000 tổ hội, đoàn thể là mạng lưới chân rết để làm sao giúp cho bà con làm các thủ tục, giao dịch với Ngân hàng thuận tiện. Đến nay, chúng tôi đã cam kết và thực hiện được Bản ghi nhớ giữa NHCSXH và Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ là tăng trưởng tín dụng hành năm của Tây Nam bộ cao hơn mức bình quân chung cả nước. (Bình quân chung cả nước giai đoạn vừa rồi là 8,7%, riêng Tây Nam bộ là tăng trưởng 10,5%!)
Đến nay có 28.787 tỷ đồng dư nợ tín dụng chính sách cho gần 2.100 người nghèo và các đối tượng chính sách vay. Tập trung ở Tây Nam bộ có 8 chương trình trọng điểm: Tỷ trọng cho vay hộ nghèo ở Tây Nam bộ là 17% so với tổng dư nợ khu vực; Chương trình HSSV chiếm tỷ trọng là 15,7%; Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn chiếm 17%; Hộ mới thoát nghèo 13%; giải quyết việc làm 4,2%…
Gần 15 năm qua, chất lượng tín dụng chính sách của Tây Nam bộ đã được nâng lên rất tốt. Hiện nay có 13 tỉnh thành phố thì 12 tỉnh thành phố xây dựng Đề án Củng cố nâng cao chất lượng trong 5 năm qua, đến nay chỉ còn 2 tỉnh còn khó khăn, 10 tỉnh đã hòa nhập bình quân chung. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tổng kể Đề án 5 năm Củng cố nâng cao chất lượng tín dụng ở Tây Nam bộ, rút ra bài học để phát huy những cái tốt và tiếp tục quan tâm những nơi còn khó khăn. Trong đó, chúng tôi đánh giá rất cao vai trò của các đồng chí lãnh đạo của địa phương, sau khi có Chỉ thị 40 của Ban Bí thư TW Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tín dụng chính sách thì các đồng chí đã vào cuộc rất nhanh, vốn ngân sách địa phương hòa với vốn ngân sách trung ương để làm sao tập trung giải quyết được các đối tượng trong khu vực tốt hơn. Hiện nay ở Tây Nam bộ, ngoài Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang và các tỉnh đang triển khai rất mạnh, thậm chí ngân sách cấp huyện rất khó khăn nhưng ít nhiều vẫn tham gia, thể hiện trách nhiệm của mình đối với các đối tượng chính sách và thực hiện mục tiêu giảm nghèo của các địa phương.
MC: Thưa ông Nguyễn Thanh Xuân, chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách đến nay đã thực sự đi vào cuộc sống, phù hợp lòng dân nên được cử tri cả nước đồng tình ủng hộ. Xin ông cho biết những đánh giá của mình về nguồn vốn tín dụng chính sách được triển khai tại Cần Thơ?
Ông Nguyễn Thanh Xuân: Đối với TP Cần Thơ, sau khi có Chỉ thị 40 của Ban Bí thư, Quyết định 401 của Thủ tướng Chính phủ, cấp Ủy, chính quyền, các đoàn thể vào cuộc thuận lợi. Tại Cần Thơ, Chủ tịch UBND xã là thành viên của Hội đồng quản trị NHCSXH cấp huyện. Trưởng ấp, trưởng khu vực với vai trò giám sát Tổ tiết kiệm và vay vốn, đại diện cho đối tượng ở tại cơ sở cũng vào cuộc tích cực.
Ban đại điện HĐQT của cấp thành phố thường xuyên tổ chức hội nghị tham vấn ở cộng đồng. Qua đó, tổ chức tư vấn trực tiếp các đối tượng, nêu mô hình điểm làm hiệu quả từ tín dụng chính sách và những gương điển hình. Chính cách làm đó đã gắn kết các đối tượng ở tại cộng đồng, kịp thời giải quyết những cái khó khăn, bức xúc. Qua đó, sự đồng thuận ủng hộ của người dân ngày càng cao. Người dân và cử tri Cần Thơ rất quan tâm đến tín dụng chính sách.
Bên cạnh đó, còn tồn đọng nợ quá hạn thường là hộ nghèo và giải quyết việc làm khi mà vay giải quyết việc làm nhưng chưa có việc làm. Cùng với đó là cho vay xuất khẩu lao động tồn tại nhiều năm do những thị trường trước đây của thị trường ASEAN có tác động mà người dân đòi hỏi phải có giải pháp khi có nhưng đối tượng khó khăn rủi ro trong làm ăn và hiệu quả của việc cho vay dẫn đến người ta không thể hoàn nợ được do đó người ta bỏ đi xa thì giải quyết những câu chuyện này như thế nào?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Chúng ta cần có chính sách vĩ mô việc khoanh nợ. Theo tôi có 2 hướng: Thứ nhất, một số địa phương người ta muốn cho vay tín dụng chính sách với người nghèo thì cho vay phải có điều kiện để mục tiêu tôi là người nghèo tôi cam kết với ngân hàng, cam kết với chính quyền địa phương. Thì xử lý như thế này thì chúng ta có điều kiện, có mục tiêu. Lâu nay chúng ta cho vay cam kết đầu ra và cho vay là không có. Đây là vấn đề theo tôi các đồng chí phải suy nghĩ thêm. Thứ hai, đối với khu vực Tây Nam bộ, Đông Nam bộ phải khác với cho vay người nghèo phía Bắc.
MC: Thưa ông Nguyễn Hữu Quang, nói đến tín dụng chính sách nghĩa là chúng ta ưu đãi cho người nghèo và các đối tượng yếu thế của xã hội. Sự ưu đãi ở đây mang tính nhân văn của Đảng, Nhà nước ta. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, ông nhìn nhận như thế nào về vốn và lãi? Tại sao không thể cấp thêm nguồn vốn, mở rộng đối tượng để cho vay?
Ông Nguyễn Hữu Quang: Đây là câu hỏi hay, việc hỏi và trả lời giúp cho cơ quan hoạch định chính sách, thực thi chính sách rút ra được tính khả thi trong việc sử dụng nguồn tín dụng chính sách.
Sau 15 năm hoạt động, tăng trưởng tài sản của ngân hàng rất cao. Đến cuối năm vừa rồi chúng ta có 162 nghìn tỷ tăng 23 bậc. Kết quả đầu ra, ngoài tăng trưởng vốn tài sản thì tăng trưởng cho vay cũng rất ấn tượng. Kết quả này do tăng vốn. Theo số liệu báo cáo gần nhất, trong 162 nghìn tỷ đồng thì nguồn vốn chủ yếu là từ nguồn ngân sách Nhà nước (27 nghìn tỷ). Nguồn vốn thứ hai là nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước, ủy thác qua Bộ Tài chính, qua các ODA. Nguồn vốn thứ ba là từ NHTM Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Với chính sách 2% thì chúng ta có 44 nghìn tỷ đồng chiếm trên 27%. Nguồn vốn thứ tư là qua phát hành Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh, gần 40 nghìn tỷ đồng. Sự tăng trưởng của nguồn vốn tín dụng cơ bản do chính sách của chúng ta.
Về lãi, NHCSXH có chính sách ưu đãi, có những khoản vốn, có những nguồn vay 0%, cao nhất là 9% … Nhờ chính sách ưu đãi, chúng ta mới mở rộng được đối tượng vay và mở rộng dư nợ.
Việc mở rộng đối tượng cho vay được hay không? Trước hết là trên cơ sở nhu cầu, và từ nguồn lực của nhà nước. Trong đó, cấp bù bổ sung vốn điều lệ hay nguồn vốn Nhà nước cho vay bảo đảm 100%. Thời gian vừa qua, có một số chính sách được ban hành không đủ nguồn lực để thực hiện, cấp bổ sung vốn điều lệ theo tăng trưởng tín dụng. Trong mấy năm vừa qua, tăng trưởng tín dụng vẫn có, nhưng Ngân hàng Nhà nước còn nợ NHCSXH, trong đó có nợ cấp bù lãi suất, quản lý… Trong tương lai, sẽ giải quyết rốt ráo vấn đề này.
MC: Chuẩn nghèo thay đổi thì đối tượng thay đổi và nguồn lực cũng thay đổi. Có một điều cần hết sức lưu ý là khi thay đổi như vậy thì điều kiện cho vay cũng phải khác. Điều kiện cho vay ở mức thấp khác, nhưng khi người ta giàu hơn thì điều kiện phải khác. Đây là bài toán liên tục đối với NHCSXH thích ứng với điều kiện mới. Và chúng ta muốn nói đến đối tượng mở ra như vậy thì làm như thế nào thì mới có thể huy động thêm nguồn vốn chính sách?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Bây giờ có rất nhiều người có vốn, họ có thể hỗ trợ cho ngân hàng với lãi suất thấp hơn so với ngân hàng thương mại và người ta tin tưởng là ngân hàng đó không bao giờ bị phá sản. Ví dụ, tôi có một ngân hàng mà không bao giờ có nợ xấu. Tôi mang tiền mua bò, tôi cho nhà ông Quang một con bò sinh sản, con bò nhà ông Quang đẻ được một con bê, nếu là bê đực thì bán đi đấu thầu mua con bê cái, còn nếu là con bê cái thì cho ông Hòa. Con bê đó sau này vĩnh viễn là của ông Quang, dù đẻ đến 100 lứa cũng là của ông Quang. Tôi lúc đầu có 95 con đến bây giờ có 126 con và ngay ngày mai sẽ có thêm 2 con chuẩn bị đẻ, vốn của tôi còn nguyên xi, nếu tôi yêu cầu hội phụ nữ hoặc chữ thập đỏ trả cho tôi gốc đó hoặc phần lãi bằng bò thì tôi hoàn toàn không mất.
MC: Thưa ông Phạm Văn Hòa, vốn vay từ NHCSXH đã xây dựng mối gắn kết giữa Nhà nước, chính quyền cơ sở với các tổ chức chính trị - xã hội và người nghèo cùng vượt qua khó khăn; đồng thời phát huy tính chủ động, nâng cao trách nhiệm của người nghèo vượt lên hoàn cảnh là cách làm nhân văn và hiệu quả. Ông suy nghĩ về vấn đề này như thế nào?
Ông Phạm Văn Hòa: Phải nói rằng chính sách tín dụng của Đảng và Nhà nước ta đã đi vào cuộc sống, đến tận tay đối tượng đặc thù để các đối tượng này được hưởng chế độ chính sách. Trong hệ thống chính trị của chúng ta, đặc biệt là Mặt trận và các đoàn thể thì thực hiện chức năng nhiệm vụ đó là giáo dục, uốn nắn, rồi lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, giúp đỡ, hỗ trợ, tác động các hội viên của mình.
Thông qua tổ chức tín dụng để ủy thác cho các đoàn thể, đây như một cầu nối giữa Đảng, đoàn thể với những người tiếp cận được vốn tín dụng này.
Trong nông thôn hiện nay vẫn còn tồn tại tín dụng đen, những đối tượng vay tín dụng này thường khó mà trả được, cho nên họ tiếp cận được tín dụng mà NHCSXH ủy thác cho các hội, đoàn thể thì đây là một chính sách vô cùng nhân văn. Cái nhân văn chính là mối liên hệ giữa Đảng, chính quyền, các hội đoàn thể với người dân ngày càng mật thiết hơn. Đối tượng vay và người cho vay có sự gắn kết, gần gũi. Các tổ chức đoàn thể cũng sát dân hơn, gần hơn hơn, ngoài chuyện cho vay còn thực hiện tuyên truyền đường lối, chủ trương của Nhà nước. Có nhiều người dân đã nói rằng nếu không có nguồn vốn tín dụng này thì suốt đời không biết bao giờ người ta mới thoát được nghèo và con cái không được học hành đến nơi đến chốn.
Những năm đầu nguồn vốn còn ít, không những thế nợ quá hạn còn nhiều, đôi khi cho vay không đúng đối tượng nhưng thời gian gần đây, với sự vào cuộc của các tổ chức đoàn thể, nguồn vốn đã xác định đúng vị trí, vai trò, cho đúng đối tượng cần vay, vốn vay cũng được sử dụng đúng mục đích.
MC: Thưa ông Bùi Sĩ Lợi, bảo đảm an sinh xã hội là những giải pháp tổng thể và đồng bộ trong đó có tín dụng chính sách. Vậy kết quả và sự lan tỏa của chính sách này nên được đánh giá như thế nào?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Tôi nhận xét vấn đề lan tỏa của vốn tín dụng NHCSXH ở 5 điểm: Đầu tiên, chính chúng ta giảm được mục tiêu giảm nghèo bền vững và đặc biệt là giảm cái nghèo cùng cực, giảm nghèo đồng đều trong cả nước. Đó chính là do độ bảo phủ toàn diện của vốn tín dụng đến từng thôn, bản, hộ gia đình. Nó không chỉ đi theo địa bàn mà nó từ cho vay theo sản xuất, đến cho vay giáo dục đào tạo, vay xuất khẩu lao động và vay theo chính sách khác. Đó chính là lan tỏa về địa bàn, về quy mô cho vay; đó còn là sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội.
Thứ hai, chính sách tín dụng cho hộ nghèo không chỉ phát triển rộng rãi đều khắp mà còn đáp ứng cả nhu cầu cho vay ở tất cả các mô hình như hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, học sinh sinh viên và điều quan trọng là liên tục điều chỉnh đối tượng vay, mức vay và điều chỉnh lãi xuất. Thứ nữa là không thể khu vực đồng bằng mà lại lãi suất thấp như nông thôn khu vực vùng sâu, vùng xa của các huyện nghèo, đây chính là công bằng dọc và công bằng ngang.
Cái lan tỏa thứ ba là chúng ta xây dựng được mối liên kết gắn bó giữa Nhà nước với các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp và người dân. Đây là một sự gắn kết, quan hệ thể hiện liên minh công nông và thể hiện bản chất của chế độ.
Thứ tư, chúng ta thiết lập được một mô hình quản trị đặc thù rất phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuối cùng, NHCSXH thực hiện được phương thức quản lý tín dụng chính sách thông qua ủy thác cho các tổ chức chính trị. Đây chính là mục tiêu của chúng ta, không chỉ lan tỏa về vốn, về nguồn lực mà quan trọng là lan tỏa đến việc chia sẻ tình cảm, trách nhiệm, đoàn kết, gắn bó trong nhân nhân. Đây chính là một điều kiện tăng thêm sự đoàn kết thân ái trong nhân dân.
Cơ cấu nguồn vốn hợp lý, hiệu quả
Quý IV năm 2002 Chính phủ ban hành Quyết định thành lập NHCSXH được coi như một công cụ kinh tế thực hiện vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đối với các đối tượng dễ bị tổn thương và là đòn bẩy kinh tế kích thích người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác có điều kiện phát triển sản xuất, tự vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, NHCSXH cũng đang đứng trước những thách thức về việc vốn Điều lệ. Việc bố trí vốn đầu tư công, trung hạn giai đoạn 2016 - 2020; cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự phù hợp… Tại sao ý nghĩa xã hội rất rõ ràng, hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực mà lại khó khăn về nguồn vốn cho vay?
MC: Thưa ông Bùi Sĩ Lợi, để NHCSXH thực sự là công cụ thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách của Nhà nước về hỗ trợ giảm nghèo nhanh, bền vững, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, chúng ta cần chú trọng những giải pháp gì, đặc biệt là giải pháp về vốn?
Ông Bùi Sĩ Lợi: Theo tôi có 5 giải pháp cơ bản, có tính tương đồng trong hệ thống chính trị của chúng ta vào thực tiễn trong 15 năm chúng ta thực hiện tín dụng chính sách của NHCSXH. Thứ nhất, chúng ta phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của các cơ quan dân cử bao gồm cả ĐBQH và đại biểu HĐND các cấp. Mục tiêu để chúng ta đánh giá được sự phát triển ưu điểm và chỉ ra các nhược điểm trong tổ chức triển khai thực hiện để chúng ta kiến nghị xử lý ngay trực tiếp. Thông qua giám sát đó chúng ta nghiên cứu điều chỉnh chính sách.
Thứ hai, đề nghị Chính phủ phải bổ sung vốn điều lệ cho NHCSXH. Tôi nghĩ rằng, đây là một kênh để chúng ta thực hiện tốt quá trình giảm nghèo, là yếu tố để tác động tăng năng suất lao động và là yếu tố để tăng trưởng kinh tế. Theo tôi tập trung vốn nhàn rỗi cho NHCSXH. Bên cạnh đó là vốn ODA nếu có.
Thứ ba, cho phép huy động vốn vay để tăng nguồn vốn cho vay của NHCSXH. Phải nghiên cứu mở rộng đối tượng điều chỉnh. Bên cạnh đó, lãi xuất phải linh hoạt, vùng miền phải khác nhau… Đồng thời, cho vay phải bảo đảm 5 dịch vụ xã hội cơ bản: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt, thông tin. Đây là tinh thần Nghị quyết Trung ương XII.
Thứ tư, tập trung hơn cho vay vùng lõi nghèo nằm trong 64 huyện nghèo. Theo tôi, chuyển hướng ưu tiên cho vay có điều kiện.
Thứ năm, phải tổng kết đánh giá toàn diện tín dụng chính sách cho vay để xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn vừa qua. Mục tiêu của chúng ta là điều chỉnh chính sách cho phù hợp với chuẩn nghèo đa chiều.
MC: Thưa ông Nguyễn Thanh Xuân, ông có đề xuất những giải pháp gì nhằm phát huy nguồn tín dụng chính sách trên địa bàn thành phố cũng như các tỉnh khác trong vùng Tây Nam bộ?
Ông Nguyễn Thanh Xuân: Tôi xin có hai đề xuất liên quan đến không chỉ Cần Thơ mà cả ĐBSCL. Thứ nhất là tôi rất đồng thuận với ý kiến của ông Hiệp là việc huy động nguồn lực ngoài chính sách tín dụng rồi thì có ở địa phương và doanh nghiệp mà vừa qua Ngân hàng nhà nước và tất cả các ngân hàng khác đã cùng với Ban chỉ đạo Tây Nam bộ trở thành truyền thống là hàng năm tổ chức Hội nghị liên kết giữa doanh nghiệp với ngân hàng trong đó có NHCSXH. Tôi thấy rằng NHCSXH kết nối với doanh nghiệp và huy động ngoài cộng đồng xã hội thì nên tính những chương trình mà có điều kiện để doanh nghiệp có tiếng nói tại diễn đàn đó và có sự đồng thuận với nhau. Nếu để doanh nghiệp địa phương hỗ trợ những gì, cấp ủy chính quyền địa phương và đoàn thể chính trị lo cho nên sẽ bị hạn chế. Mà đối tượng khi đã thoát nghèo trong 5 năm rất dễ tái nghèo nếu không có chính sách để hỗ trợ. Từ đó, tôi thấy vấn đề đang khó mà vừa nãy anh Hiệp có nói là chương trình hay đưa ra những chủ trương chính sách nhưng cuối cùng nguồn lực của NHCSXH không đáp ứng được.
Thứ hai là cho vay theo nhu cầu thì chương trình phải tính theo nhu cầu của vùng miền. Ví dụ, Cần Thơ hiện nay hàng năm là NHCSXH từ trung ương hỗ trợ từ 10 – 20 tỷ đồng nhưng nhu cầu ở Cần Thơ là từ 80 – 100 tỷ đồng. Cao rất nhiều lần, cả ĐBSCL cũng vậy. Nhưng nếu giải quyết được vấn đề này thì sẽ giải quyết được rất nhiều việc như thu nhập, tạo việc làm, giải quyết nghề truyền thống địa phương và giải quyết luôn việc tham gia kinh doanh của hộ kinh doanh nhỏ ở các địa bàn gắn với Luật Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa sửa đổi, bổ sung. Tôi nghĩ rằng đây là việc cần được quan tâm vì hiện nay chúng ta cho rằng tín dụng tăng qua hàng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của người dân trên địa bàn. Cho nên tôi thấy đây là hai điểm mà ở ĐBSCL và Cần Thơ đang có nhu cầu rất lớn, các chương trình cần nên nghiên cứu và tính toán.
MC: Từ góc độ lập pháp và giám sát, thưa ông Nguyễn Hữu Quang, để phát huy hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách, bảo đảm nguồn vốn ổn định, lâu dài, cơ cấu nguồn vốn cần thực hiện ra sao?
Ông Nguyễn Hữu Quang: Có thể nói chúng ta chưa thỏa mãn với những mục tiêu mà chúng ta đề ra. Qua con số báo cáo, tôi thấy kết quả hoạt động của NHCSXH rất là tích cực. Tăng trưởng tín dụng cũng 19% - 20%/năm. Có thể nói NHCSXH chất lượng tín dụng rất cao, nợ xấu của chúng ta chỉ có 0,75%. Với kết quả như vậy, tôi cho rằng nếu chúng ta có điều kiện huy động, cho vay quản lý chặt với những gì chúng ta đạt được thì trong tương lai chúng ta sẽ đạt được cao hơn.
Vấn đề là chúng ta giải quyết nguồn vốn. Trong báo cáo cũng đã phân tích rồi, hiện nay cơ cấu vốn của chúng ta là 82% vẫn là phụ thuộc vào các chính sách của nhà nước có 4 nguồn vốn chủ lực. Nguồn vốn mà chúng ta tự huy động chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn. Tôi đề nghị, với kết quả tích cực như vậy, nợ quá hạn thấp, chúng ta cũng nên nghĩ đến chuyện huy động từ các nguồn lực khác tăng lên 18%.
Về bất cập lãi suất, chúng ta huy động về ngắn hạn mà cho vay dài hạn bất cập về lãi suất, thế thì giải quyết vấn đề này như thế nào? Thời gian qua, chúng ta đã giải quyết thông qua tăng tỷ lệ phát hành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh. Tôi cho rằng, đây là một hướng mà tôi rất ủng hộ và tôi tâm huyết với cái đó. Nếu các anh có đề xuất thì chúng tôi sẽ đề xuất lên Chính phủ là tăng phát hành trái phiếu Chính phủ thì chúng ta sẽ giải quyết được bất cập về kỳ hạn lãi suất để chúng ta có điều kiện mở rộng đối tượng cho vay cũng như là hạn mức cho vay.
Về cấp bù vốn điều lệ, cấp bù lãi suất, phí quản lý, vừa qua trong kế hoạch thẩm tra đầu tư công trung hạn trong năm 2016, chúng tôi đi một số đơn vị trong đó có NHCSXH thì chúng tôi ủng hộ hoàn toàn. Trong năm 2013, Nhà nước còn nợ 700 tỷ đồng vốn điều lệ, năm 2015 là 1.140 tỷ đồng, năm 2016 là 1.200 tỷ đồng, dự kiến năm 2017 là 1.130 tỷ đồng. Qua khảo sát làm việc chúng tôi đề xuất với Chính phủ và Chính phủ trình ra Quốc hội thông qua. Trong 5 năm tới sẽ cấp bù vốn điều lệ là hơn 4.900 tỷ và cấp bù lãi suất và chi phí quản lý là 5.600 tỷ đồng.
Trong tương lai với ngân sách dồi dào hơn và với điều kiện hoạt động của NHCSXH, chúng tôi cũng sẽ ủng hộ để làm sao chúng ta tăng được vốn điều lệ trên cơ sở tăng trưởng tín dụng. Tóm lại NHCSXH là một tổ chức tín dụng thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các đối tượng cần được quan tâm trong xã hội thì quan điểm từ Đảng cho đến Quốc hội, Chính phủ là ủng hộ hoàn toàn, trên cơ sở kết quả hoạt động hiệu quả.
PV
Ý KIẾN ĐỘC GIẢ
Các tin bài khác
- » Đoàn cán bộ cấp cao ASDP - Nepal làm việc tại VBSP
- » Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp TW làm việc với Đảng ủy NHCSXH TW
- » Gia hạn nợ cho khách hàng vay vốn đầu tư chăn nuôi lợn
- » Bình Thuận sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động tín dụng chính sách
- » Bế giảng lớp đào tạo cán bộ lãnh đạo và quy hoạch lãnh đạo chi nhánh cấp tỉnh
- » NHCSXH và Học viện Ngân hàng ký kết thỏa thuận hợp tác giai đoạn 2017 - 2022
- » “Thể hiện rõ năng lực lãnh đạo của người đứng đầu đơn vị”
- » Vĩnh Phúc ưu tiên dành ngân sách địa phương cho vay giải quyết việc làm
- » Tiếp tục tăng cường huy động nguồn vốn ủy thác từ địa phương
- » Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương kỷ niệm 10 năm thành lập