Hiệu quả từ chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn

26/08/2020
(VBSP News) Thời gian qua, NHCSXH tỉnh Đồng Nai đã giúp cho trên 146 nghìn lượt hộ vay vốn chương trình cho vay NS&VSMTNT với tổng số tiền đạt hơn 1,6 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn này đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, nhất là giải quyết bài toán vệ sinh môi trường, thiếu nước sinh hoạt ở các xã còn nhiều khó khăn.
dong nai

Bà Trương Thị Thu Thật ở ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất đã xây dựng được công trình nước sạch hợp vệ sinh

Nguồn vốn vay hữu ích
Giám đốc NHCSXH tỉnh Đồng Nai Huỳnh Công Nam cho biết: Nguồn vốn vay từ chương trình NS&VSMTNT đã được các hộ dân sử dụng để làm trên 261 nghìn công trình nước sạch và vệ sinh chất lượng gồm: 141,4 nghìn công trình nước sạch và 119,7 nghìn công trình vệ sinh. Hiện nay, doanh số cho vay chương trình NS&VSMTNT chiếm tỷ lệ cao trong 16 chương trình cho vay mà hệ thống NHCSXH tỉnh đang triển khai thực hiện.
Gia đình ông Đoàn Ngọc Bửu ở ấp 5, xã Sông Nhạn, huyện Cẩm Mỹ thuộc diện hộ cận nghèo. Vợ mắc bệnh ung thư nên khả năng kinh tế của gia đình ông rất eo hẹp. Do nhà nằm giữa khu vực rẫy ruộng thưa vắng người nên những năm trước, gia đình ông không chú trọng lắm đến việc làm nhà vệ sinh kiên cố, còn nguồn nước dùng hằng ngày chủ yếu là từ giếng đào với độ sâu hạn chế và có thêm một số thùng phi chứa nước mưa để dành.
Cách đây 2 năm, thông qua Hội Nông dân xã Sông Nhạn, ông Bửu làm hồ sơ và được vay số tiền 12 triệu đồng chương trình NS&VSMTNT. “Cộng với tiền tiết kiệm của gia đình, tôi làm lại nhà tắm, nhà vệ sinh, khoan giếng, mua máy bơm, xây bể chứa nước. Có những công trình này, sinh hoạt của cả nhà tốt lên rất nhiều”, ông Bửu chia sẻ.
Cũng được vay vốn từ chương trình NS&VSMTNT là gia đình bà Trương Thị Thu Thật ở ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất. Năm 2012, khi xây nhà, bà Thật chỉ đủ tiền để làm công trình chính còn công trình phụ thì thiếu hụt. UBND xã đã hỗ trợ bà Thật làm hồ sơ vay vốn từ chương trình NS&VSMTNT của NHCSXH huyện. Bà sử dụng tiền vay để làm nhà vệ sinh, nhà tắm. Sau khi trả xong khoản tiền này, năm 2016, bà vay tiếp lần thứ hai được 12 triệu đồng để khoan giếng, mua máy bơm, làm đường ống dẫn nước.
Bà Thật cho hay: “Vốn vay chính sách có lãi suất ưu đãi, thủ tục đơn giản, không thế chấp tài sản, thời gian vay lâu nên giúp ích rất nhiều cho một hộ nghèo vào thời điểm đó như gia đình tôi”.
Tiếp tục nâng mức cho vay
Phó chủ tịch UBND xã Sông Nhạn Võ Linh Vương Thảo cho biết, thời gian qua, địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân xây dựng đời sống văn hóa, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống gắn với tiêu chí xanh - sạch - đẹp - an toàn. Nguồn vốn vay từ chương trình NS&VSMTNT đã tạo nên động lực rất lớn trong việc thay đổi thói quen sinh hoạt và thực hiện các công trình vệ sinh môi trường nông thôn, nước sạch trong từng hộ dân.
Thời gian qua, toàn xã Sông Nhạn đã có 539 hộ vay vốn chương trình NS&VSMTNT của NHCSXH. Sau nhiều năm sử dụng các công trình này đang xuống cấp nên bà con rất cần tiếp tục vay để xây mới, hoặc cải tạo công trình cũ.
Ngoài ra, dù mức cho vay chương trình NS&VSMTNT hiện nay đã được nâng lên 20 triệu đồng/2 công trình/hộ song vẫn thấp so với nhu cầu xây dựng thực tế của người dân.Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn ấp Ngô Quyền Huỳnh Văn Hải cho hay, những năm qua, tổ có 50 hộ vay chương trình NS&VSMTNT. Hiện, bà con rất muốn vay tiếp để cải tạo lại công trình cũ. Tuy nhiên, chi phí đầu tư 1 giếng khoan, bể lọc, máy bơm hơn 30 triệu đồng. Xây dựng nhà tắm, nhà vệ sinh có hầm kiên cố từ 20 triệu đồng trở lên… Do vậy, bà con rất mong muốn mức cho vay từ chương trình NS&VSMTNT sẽ được điều chỉnh tăng theo giá cả thực tế hiện nay.
Đồng quan điểm với những kiến nghị này, ông Huỳnh Công Nam cho hay, qua khảo sát mức vay chương trình NS&VSMTNT hiện nay là thấp so với chi phí xây dựng thực tế. Do vậy, NHCSXH tỉnh đã kiến nghị cấp trên xem xét trong giai đoạn tới cần nâng mức cho vay đối với công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn từ 20 triệu đồng/2 công trình lên 30 triệu đồng/2 công trình do giá cả nguyên vật liệu, nhân công hiện nay cao hơn so với trước đây.

Nguyễn Vân

Các tin bài khác