Đề nghị kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển đến hết năm 2025

30/10/2023
(VBSP News) Ngày 30/10, ĐBQH tỉnh Vĩnh Long đã có nhiều ý kiến đóng góp trong phiên giám sát tối cao chuyên đề “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTGG) về xây dựng Nông thôn mới giai đoạn 202 1- 2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030” tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.

dbqhvl1

Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Nguyễn Thị Minh Trang: Có cơ chế phù hợp đối với các địa phương không thể cân đối đủ nguồn lực đối ứng thực hiện các chương trình
Có thể nói các CTMTQG xây dựng Nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi đã kế thừa có hiệu quả kinh nghiệm triển khai thực hiện của các giai đoạn trước và nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, quyết liệt, toàn diện, đồng bộ của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các ban bộ ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương.
Việc thực hiện 3 CTMTQG giai đoạn 2021 - 2025 trong gần 3 năm qua đã có những đóng góp quan trọng làm thay đổi diện mạo nông thôn, miền núi và quan trọng hơn hết là đời sống của nhân dân vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào DTTS từng bước được cải thiện, an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn, miền núi tăng khá; tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm đáng kể.
Tuy nhiên, thực tế giám sát cũng cho thấy sự phối hợp giữa một số bộ, ngành Trung ương, giữa các cơ quan trung ương và địa phương trong quá trình xây dựng cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện chương trình đầu kỳ còn chưa chặt chẽ dẫn đến một số cơ chế, chính sách chưa đồng bộ.
Hướng dẫn của một số bộ, ngành phụ trách tiêu chí, đề án còn thiếu hoặc chưa rõ ràng, ban hành chậm và chưa phù hợp với thực tiễn địa phương; danh mục một số dự án đầu tư còn dàn trải, manh mún, trùng lắp, chưa đúng mục tiêu của chương trình, chưa rà soát kỹ đối tượng thụ hưởng, cơ chế lồng ghép nguồn lực các CTMTQG, cơ chế phân cấp, phân quyền cho địa phương, chưa thực sự phát huy hiệu quả;… làm ảnh hưởng trực tiếp, tiêu cực đến tính bền vững của kết quả giảm nghèo, người dân dễ bị tái nghèo vì các lý do khách quan; tỷ lệ xã, huyện đạt chuẩn Nông thôn mới, Nông thôn mới nâng cao, Nông thôn mới kiểu mẫu không đồng đều giữa các vùng miền; nhiều mục tiêu phát triển kinh  tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi dự báo không đạt kế hoạch đề ra như các báo cáo đã đánh giá.
Để hiện thực hóa các giải pháp, các cơ chế đặc thù  tháo gỡ khó khăn, vướng mắc theo đề xuất của Chính phủ và để các CTMTQG thực sự là chương trình tổng hợp về chính trị- kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường và đảm bảo quốc phòng an ninh:
Thứ nhất, đề nghị Chính phủ tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phân công, phân cấp, xác định rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng đầu trong thực hiện các CTMTQG; gắn với thực hiện đồng bộ các biện pháp kiểm tra, giám sát, thanh tra để kịp thời phát hiện những bất cập nảy sinh trong quá trình tổ chức thực hiện để có biện pháp hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, đồng thời phòng ngừa, kịp thời ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, lãng phí, xử lý nghiêm các vi phạm trong quá trình thực hiện chương trình.
Thứ hai, rà soát sửa đổi đổi bổ sung, hoàn thiện, hợp nhất các văn bản quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện chương trình để các địa phương nghiên cứu, áp dụng đồng bộ gắn với lãnh đạo ưu tiên nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu tư đẩy mạnh ứng dụng nền tảng số và nâng cao năng lực chuyển đổi số; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý, từ việc rà soát đối tượng thụ hưởng, dự án cần triển khai, địa bàn cần tập trung đầu tư đến công tác theo dõi, giám sát, thẩm định, công nhận kết quả thực hiện các tiêu chí, các dự án, tiểu dự án của từng chương trình.
Ngoài ra, đảm bảo hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý CTMTQG được cập nhật, kết nối liên thông với từ cấp xã đến trung ương, từ người dân đến cộng đồng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước các cấp, nhằm tăng cường hơn nữa vai trò giám sát, phản biện của các tầng lớp nhân dân đối với kết quả thực và tính bền vững, ý nghĩa nhân văn của các CTMTQG.
Thứ ba, tiếp tục lãnh đạo đổi mới phương thức thông tin truyền thông trong thực hiện CTMTQG, nâng cao nhận thức của các ngành các cấp, nhất là cấp cơ sở, địa bàn dân cư về những mục tiêu, giải pháp của đề án, chương trình tổng thể, làm thay đổi mạnh mẽ nếp nghĩ, cách làm của người dân - đối tượng thụ hưởng trực tiếp từ hiệu quả của các chương trình, nhất là chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Giải pháp này vừa truyền tải thông tin về truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc, những thành tựu về phát triển kinh tế- xã hội, xoá đói giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc, vừa nắm bắt, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, tiếng nói của đồng bào các dân tộc với cấp uỷ, chính quyền các cấp về những tồn tại, hạn chế, bất cập, để kịp thời sửa đổi, bổ sung các chủ trương, chính sách, góp phần vào việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chống lại các luận điệu sai trái, lợi dụng vấn đề dân tộc, nhân quyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch, củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc, của toàn dân với Đảng, Nhà nước.
Thứ tư, Chính phủ có cơ chế phù hợp đối với các địa phương không thể cân đối đủ nguồn lực đối ứng thực hiện các chương trình, nhất là các tỉnh miền núi, khu vực khó khăn để các địa phương này có thêm nguồn lực thực hiện các mục tiêu chương trình và không bị bỏ lại phía sau trong xu thế phát triển chung của cả nước.  
ĐBQH tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thị Quyên Thanh: Đề nghị tăng nguồn vốn tín dụng để tiếp tục thực hiện chương trình

dbqh2

Việc triển khai thực hiện các CTMTGG trong những năm qua có ý nghĩa quan trọng, đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -  xã hội của giai đoạn 2021 -2025.
Chương trình này được triển khai đồng bộ ở các địa phương, đã tạo cơ hội và điều kiện để người nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, tạo việc làm và nâng cao chất lượng nguồn lao động, góp phần phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh kết quả đạt được, tôi đồng tình với những hạn chế được nêu trong báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội.
Công tác lập kế hoạch, phân bổ vốn và giao kế hoạch theo cơ chế kế hoạch từng năm nên chưa bảo đảm sự chủ động cho địa phương; mục tiêu, nội dung của một số chương trình còn trùng lặp với nhiệm vụ chi thường xuyên; sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong quá trình theo dõi, đánh giá các chương trình còn hạn chế.
Thứ nhất, thống nhất với đề xuất Chính phủ đề nghị Quốc hội phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Chương trình đến hết năm 2025, do một số khó khăn, vướng mắc như đã nêu.
Giao Chính phủ rà soát, xác định rõ số vốn cần kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân của từng dự án, trên cơ sở đó báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Thứ hai, chính sách tín dụng ưu đãi do Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện là một cấu phần quan trọng trong các CTMTQG.
Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước một cách thuận lợi, nhanh chóng; các chương trình tín dụng được tổ chức thực hiện có hiệu quả, đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Do đó, đề nghị Quốc hội, Chính phủ tăng nguồn vốn tín dụng chính sách trong giai đoạn 2024 - 2025 để tiếp tục thực hiện chương trình; trong đó, tập trung ưu tiên tăng nguồn vốn đầu tư cho đồng bào DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; chương trình vay vốn ưu đãi để thực hiện chính sách nhà ở xã hội; xem xét cho phép kéo dài thời gian hộ gia đình được thụ hưởng chính sách tín dụng cho vay đối với hộ mới thoát nghèo kể từ khi ra khỏi danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo lên tối đa là 5 năm để người dân có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách, phát triển kinh tế, thoát nghèo bền vững; cho phép các xã khu vực III, II khi đạt chuẩn Nông thôn mới tiếp tục được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với vùng khó khăn trong thời gian 3 năm.
Bên cạnh đó, xem xét, điều chỉnh chính sách tín dụng cho phù hợp với thực tiễn nhằm thực hiện thành công các CTMTQG theo hướng tăng định mức và mở rộng đối tượng được vay như: nâng mức cho vay đối với các chương trình cho vay NS&VSMTNT phù hợp nhu cầu đầu tư và diễn biến giá cả thị trường; bổ sung đối tượng vay vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh đối với hộ làm nông nghiệp có mức sống trung bình, tạo điều kiện cho các đối tượng này có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu.
Thứ ba, CTMTQG đã góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào DTTS và miền núi; đời sống của đồng bào các DTTS được cải thiện rõ nét. Tuy nhiên, theo Kết luận 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị thì so với sự phát triển chung của cả nước và từng địa phương, đời sống của đồng bào DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo còn cao.
Vì vậy cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung tiêu chí, chương trình, dự án theo tinh thần Kết luận 65; nghiên cứu, khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hoá, tập quán từng dân tộc nhằm hỗ trợ tốt hơn cho đời sống vật chất tinh thần của người dân, góp phần phát đồng bộ, bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Thứ tư, việc xây dựng Nông thôn mới bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường; xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn bền vững.
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 801/QĐ-TTg ngày 07/7/2022 phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030. Tuy nhiên, quyết định này chưa được triển khai quyết liệt, vì vậy địa phương cũng gặp không ít khó khăn trong việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ, bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề; chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, người có công bảo tồn, gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa nghề truyền thống.
Một số làng nghề đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Vì vậy, đề nghị các bộ, ngành nghiên cứu, sớm triển khai và hướng dẫn địa phương thực hiện Quyết định số 801 của Thủ tướng Chính phủ trong đó cần chú trọng việc rà soát các nội dung, chính sách bảo tồn, phát triển nghề, làng nghề.
Thứ năm, đề nghị nghiên cứu cơ chế giao tổng kế hoạch vốn sự nghiệp cho địa phương thực hiện các CTMTQG, còn dự toán chi tiết đến từng dự án, nguồn vốn theo từng dự án, lĩnh vực cụ thể để các địa phương chủ động triển khai; đồng thời cho phép được điều chỉnh kế hoạch vốn hàng năm giữa các dự án, tiểu dự án cho phù hợp với nhu cầu thực tiễn và khả năng giải ngân, điều chỉnh nguồn vốn từ các dự án thực hiện chưa hiệu quả hoặc không có địa bàn, đối tượng thụ hưởng sang thực hiện các dự án khác có nhu cầu vốn nhiều hơn đảm bảo thực hiện đúng đối tượng và địa bàn thụ hưởng của dự án theo quy định.
Thực tế hiện nay các địa phương còn gặp một số khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện các CTMTQG trong đó việc phân bổ vốn sự nghiệp cho một số tỉnh chưa phù hợp do địa phương không có đối tượng hoặc có đối tượng không theo quy định.

B. Thanh - Đ. Thi ghi

Các tin bài khác