Khơi mạch nguồn phát triển kinh tế
Mường Khương là một trong 3 huyện khó khăn nhất của tỉnh Lào Cai. Cũng là một trong những huyện nghèo của cả nước với 8/15 xã và 1 thị trấn, 13.213 hộ dân với 14 dân tộc sinh sống trong đó 90% là đồng bào DTTS. Tỷ lệ hộ nghèo cao, trong đó, hộ nghèo chiếm tỷ lệ 37,36%; hộ cận nghèo là 18,56%. Cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ, giao thông khó khăn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra khiến việc phát triển kinh tế hộ không dễ dàng nếu thiếu các lực đẩy từ việc thay đổi tư duy, tập quán sản xuất đến định hướng chuyển đổi vật nuôi cây trồng, hỗ trợ con giống của chính quyền địa phương, đặc biệt là vốn. Và khi cái ăn, cái mặc vẫn còn chưa đủ đầy nói gì đến tài sản tích lũy, nguồn vốn duy nhất có thể đến được với các hộ đồng bào DTTS chính là nguồn vốn tín dụng chính sách từ NHCSXH. Thấu hiểu tầm quan trong này những năm qua, NHCSXH huyện Mường Khương đã cùng các cấp chính quyền địa phương và các hội, đoàn thể, Tổ tiết kiệm và vay vốn, đưa nguồn vốn đến từng làng bản, trong đó đặc biệt ưu tiên cho những vùng khó khăn.
Về xã Bản Lầu khi nắng nóng mùa hạ lên tới đỉnh điểm, mà thấy đầy thi vị. Phía dưới bầu tời xanh ngắt không một gợn mây ấy là con đường nhựa làng mịn rộng rãi, nối từ trung tâm xã Bản Lầu chạy xuyên suốt bảy thôn biên giới nối với xã Nậm Chảy. Hun hút giữa đồi núi nhấp nhô, nắng như dát vàng lấp loáng lên những vạt dứa đang độ thu hoạch, những vườn chuối bừng nên xanh mướt và xen kẽ những ngôi nhà ngói đỏ kiên cố của đồng bào người Mông, Nùng, Dao… Không chỉ cái đói chẳng còn có đất dung thân ở mảnh đất giáp biên này, mà Bản Lầu còn là xã đầu tiên cán đích nông thôn mới của huyện Mường Khương từ năm 2015 và đến nay vẫn chưa bị tụt lùi tiêu chí nào trong 19 tiêu chí.
Nhưng ít ai biết rằng nơi đây trước kia từng là vùng đất bỏ hoang, lau lách ngút đầu người, không có đường giao thông, chứ đừng nói đến điện, trường học, trạm y tế khang trang như bây giờ. Thế rồi Đảng và Nhà nước có Chương trình 135, 134 nhằm hỗ trợ các xã vùng đặc biệt khó khăn, giúp đồng bào DTTS định canh, định cư ở vùng biên giới, cấp ủy và chính quyền huyện Mường Khương đưa các hộ dân người Mông ở vùng núi đá Dìn Chin, Pha Long, Tả Gia Khâu “hạ sơn” xuống Bản Lầu lập nghiệp từ năm 1989 - 1990.
Để giúp bà con sinh sống, lập nghiệp trên vùng đất mới, tỉnh và huyện hỗ trợ phương tiện di chuyển nhà ở; trợ cấp tiền; gạo và giống cây trồng, phân bón để sản xuất. Nhà nước giao đất, giao rừng cho bà con canh tác và chăm sóc bảo vệ rừng, “lấy ngắn nuôi dài”, tạo sinh kế bền vững. Nhưng cây lúa, cây ngô canh tác trên những thửa ruộng bậc thang mỗi năm chỉ cho một vụ năng suất thấp bấp bênh theo thời tiết. No đói bấp bênh, bà con thường xuyên bỏ nhà sang Trung Quốc làm thuê.
Rồi con đường xuyên xã và điện lưới quốc gia đến từng nhà mở cánh cửa thông thương, tiếp cận với thị trường. Cùng với đó là cấp chính quyền từ huyện và xã đã vận động bà con tích cực cải tạo, chuyển đổi vùng đất hoang sơ thành đất sản xuất chuyên canh trồng chuối, trồng dứa cao sản, hỗ trợ giống vốn, hướng dẫn bà con áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất lúa nước hai vụ cho năng suất cao. Những động lực chuyển đổi kinh tế thêm lực đẩy cùng với nguồn vốn tín dụng chính sách từ NHCSXH hỗ trợ bà con phát triển sản xuất.
Đưa chúng tôi đến thăm đồi dứa của mình cũng như bà con trong thôn Na Lốc III, chị Giàng Thị Chu - Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn kể, nếu không tiếp cận được nguồn vốn cho vay phát triển sản xuất đối với đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 32 từ năm 2005 với 8 triệu đồng, chị chẳng thể có đồi dứa 5 vạn gốc và 2.000 cây chuối như bây giờ. Nguồn vốn nhỏ tuy nhỏ, nhưng đủ giúp chị trang trải tiền giống, phân bón vạt những ngọn đồi mỗi năm mở rộng thêm diện tích trồng dứa, từng cây chuối. Thấy sản xuất có hiệu quả, hơn trồng ngô lúa, chị tiếp tục mạnh dạn vay vốn hộ nghèo mở rộng hơn nữa diện tích sản xuất lên 3 vạn gốc dứa, 2000 gốc chuối. Giá chuối và giá mía một vài năm nay bấp bênh, song những năm trước được giá mỗi năm chị cũng thu được 50 - 60 triệu đồng tiền dứa và 70 - 80 triệu đồng tiền chuối. Năm 2017, gia đình chị đã thoát khỏi danh sách hộ nghèo, chị cũng đã dựng được một căn nhà gỗ mới khang trang và cho ba đứa con ăn học đầy đủ. Diện tích trồng dứa của chị tiếp tục được mở rộng với 30 triệu đồng từ chương trình cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn là 5 vạn gốc và chị dự kiến trong mùa tới lên 10 vạn gốc.
Với anh Giàng Sình, dứa, chuối là nguồn thu nhập chính yếu của gia đình. Không được tiếp cận với vốn tín dụng dành cho đồng bào DTTS vùng khó khăn, nhưng anh lại tiếp cận được nguồn vốn hộ nghèo để khai hoang trồng ngô, chuối và dứa trong lúc khó khăn nhất năm 2005, khi hai vợ chồng vừa ra ở riêng. Anh cũng chẳng nhớ mình đã vay vốn những chương trình nào sau đó, chỉ biết rằng cùng với mỗi kỳ vay vốn, anh lại có cơ hội mở thêm diện tích trồng dứa và chuối. Sau 10 năm chăm chỉ làm lụng, gia đình anh đã bước qua ngưỡng hộ nghèo. Vay thêm 50 triệu đồng từ chương trình hộ gia đình sản xuất, kinh doanh vùng khó khăn năm 2017, anh mở rộng diện tích trồng dứa thêm 1 vạn cây lên 6 vạn cây và 2.000 cây chuối. Anh khoe vừa cất được ngôi nhà nhà kiên cố từ những năm tháng chắt chiu trồng mía và dứa…
Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Bản Lầu, Nông Thị Nghì cho biết, toàn xã có 1.500 hộ với 6.300 nhân khẩu, tổng dư nợ vốn chính sách của xã đạt trên 28 tỷ đồng, riêng Hội Phụ nữ là 10,6 tỷ đồng với 247 hộ vay, trong đó có 148 hộ nghèo. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đã giúp bà con chuyển đổi cây trồng cho năng suất cao thay vì phương thức truyền thống những ngày đầu. Hiện, toàn xã có 263ha chè, 800ha chuối, hơn 1.000ha dứa. Nhiều cháu bước vào giảng đường đại học, cao đẳng nghề cũng nhờ nguồn vốn cho vay HSSV của NHCSXH.
Những mầm xanh no ấm ấy không chỉ được vun đắp ở Bản Lầu của Mường Khương. Đâu có đồng bào định canh, định cư, nơi đó có mạch nguồn chảy của dòng vốn tín dụng chính sách. Dù nguồn vốn các chương trình tín dụng dành riêng cho đồng bào DTTS vùng đặc biệt khó khăn mỏng, chỉ phủ được một phần nhu cầu, song các chương trình tín dụng chính sách với lãi suất thấp và không phải có tài sản thế chấp đã góp phần phủ những khoảng trống nhu cầu còn lại của bà con.
Như ở xã Thanh Bình này, nguồn vốn chính sách cho đồng bào DTTS đang trở thành điểm tựa để xã có thể vượt qua một trong những tiêu chí khó nhất về đích nông thôn mới vào cuối năm 2018 là tiêu chí thoát nghèo. Cùng với nguồn vốn tín dụng chính sách có mặt trên địa bàn hơn 15 năm nay, những vùng cây nông nghiệp tập trung theo quy hoạch của xã như chè lúa, ngô lai hành hóa, vùng mía đang ngày một lan rộng ra địa bàn xã. Nguồn vốn tín dụng chính sách cũng tạo nền tảng cho việc đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KHKT vào đồng ruộng và cơ giới hóa trong các khâu sản xuất, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường. Sản xuất nông nghiệp của xã đã có bước phát triển bền vững, thu nhập và đời sống của người dân từng bước được cải thiện. Hiện, mức thu nhập bình quân của xã đạt trên 21,5 triệu đồng/người/năm.
Như gia đình anh Tráng Quáng Trương ở thôn Văn Đẹt, khởi đầu với 10 triệu đồng vốn vay chương trình phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012 - 2015 theo Quyết định số 54, từ năm 2014, cùng với nguồn vốn tích lũy của gia đình để nuôi bò sinh sản. Thoát nghèo năm 2016, anh được vay vốn cận nghèo 30 triệu đồng để tiếp tục mở rộng chăn nuôi gia súc đến nay anh đã gây dựng được đàn bò 5 con và 2 con ngựa, chăn nuôi hơn chục con lợn. Khai khẩn đất trồng ngô lúa, đến nay, mỗi năm anh thu hoạch được 6 - 7 tấn ngô và 50 bao thóc/vụ dư dả ăn và chăn nuôi. Anh chỉ ngôi nhà vách đất đã hở hoác nhiều mảng tường bên cạnh để cho chúng tôi thêm cảm nhận về cuộc sống khốn khó trước kia và nay khi anh vừa chuyển sang ngôi nhà mới vừa hoàn thiện 300 triệu đồng. “Nếu không có nguồn vốn lãi suất thấp thì chúng tôi cũng chẳng dám mạnh dạn vay để chăn nuôi dần dần mở rộng sản xuất như ngày hôm nay”, anh kể.
Những mô hình vay vốn, sản xuất có hiệu quả, như chị Chu, anh Sình, anh Trương không chỉ góp thêm vào tốc độ phát triển kinh tế của địa phương, mà còn là những điển hình tiên tiến sản xuất giỏi để bà con học tập và mở rộng sản xuất, kinh tế tự cung, tự cấp ngày một bị loại bỏ và thay vào đó là nhu cầu sản xuất kinh tế hàng hóa. Nguồn vốn tín dụng chính sách thúc đẩy từng nhu cầu phát triển kinh tế của người dân đang góp phần tạo được sự bứt phá nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho nhân dân các dân tộc, cho Mường Khương là một trong 3 huyện nghèo của tỉnh Lào Cai.
Với độ phủ tín dụng chiếm hơn 62% số hộ dân trên địa bàn, nguồn vốn tín dụng của NHCSXH huyện Mường Khương đã góp phần giúp kinh tế - xã hội huyện Mường Khương phát triển toàn diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh, đúng hướng. Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển biến mạnh mẽ, công nghệ cao từng bước được ứng dụng vào sản xuất đã góp phần khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương, hình thành vùng hàng hóa gắn với thị trường được người tiêu dùng ưa chuộng bởi yếu tố vượt trội về chất lượng, như: Vùng sản xuất chè 2.686ha, vùng sản xuất dứa diện tích 785ha, vùng sản xuất chuối diện tích 1.078ha, vùng sản xuất quýt diện tích 400ha, lúa đặc sản Séng Cù, ớt Mường Khương. Chăn nuôi phát triển khá, duy trì ổn định tốc độ tăng trưởng 5%/năm; tổng đàn gia súc đạt 48.000 con/năm, sản lượng thịt hơi đạt 2.000 tấn/năm.
Sản xuất phát triển có hiệu quả đã góp phấn đưa tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm từ 56% năm 2008 xuống còn xuống còn 37,36% cuối năm 2017; tỷ lệ giảm nghèo bình quân năm đạt trên 9%/năm. Thu nhập bình quân/người/năm tăng 2,85 triệu đồng năm 2008 lên 22,7 triệu đồng năm 2017, dự kiến năm 2018 đạt 27 triệu đồng/năm.
Chương trình tín dụng chính sách cũng góp phần giúp 97% số dân cư nông thôn toàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh. Cùng với hiệu quả các chương trình giảm nghèo, xây dựng nhà ở cho hộ nghèo trong những năm qua góp phần đưa tổng số tiêu chí nông thôn mới hoàn thành đạt 173/304 lượt tiêu chí, trung bình đạt 10,8 tiêu chí/xã; 03/16 xã, thị trấn đạt chuẩn nông thôn mới. Những kết quả này sẽ góp phần không nhỏ vào việc đưa huyện Mường Khương sớm thoát khỏi huyện nghèo theo Nghị quyết 30ª của Chính phủ.
Tuy nhiên, để có thể tăng tốc hơn nữa trong công cuộc giảm nghèo của huyện, việc triển khai nguồn vốn tín dụng chính sách cho đồng bào DTTS cần được triển khai mạnh mẽ hơn nữa. Nhìn lại trong toàn cảnh tín dụng của huyện với 90% là đồng bào DTTS và 37,67% hộ nghèo, song nguồn vốn tín dụng chính sách dành riêng cho đồng bào còn ít. Nhiều nhất là chương trình cho vay hộ đồng bào DTTS nghèo đời sống khó khăn theo Quyết định số 755/QĐ-TTg chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn chỉ phân bổ đến được 395 hộ với dư nợ 5,88 tỷ đồng. Chẳng phải vì thời hạn của các chương trình cũ đã hết, mà ngay cả Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS miền núi giai đoạn 2017- 2020 tiếp nối đã có hiệu lực được 2 năm nay, song dòng vốn còn ít và trở thành cá biệt trong dòng chảy tín dụng chính sách với 104 hộ được vay vốn có dư nợ 5,2 tỷ đồng. Vì vậy, chưa kích thích và hỗ trợ được các hộ đồng bào DTTS đặc biệt khó khăn mạnh dạn phát triển sản xuất. Đây là bài toán cần sớm được giải để tạo cơ hội cho đồng bào DTTS không chỉ có “chiếc cần câu” mà còn phải đủ lực để câu những “con cá lớn” có giá trị hàng hóa.
Bài và ảnh Minh Ngọc
Các tin bài khác
- » Cần mở rộng đối tượng và nâng mức vay xây nhà tránh lũ
- » Chính sách cho vay nhà ở xã hội đi vào cuộc sống (Kỳ 2: Tháo gỡ bất cập để chính sách thuận đường tới đích)
- » Chính sách cho vay nhà ở xã hội đi vào cuộc sống (Kỳ 1: “Giấc mơ có thật” ở Quảng Nam)
- » Điểm tựa cho hộ nghèo ở Hòa Bình
- » Đồng bào DTTS ở Đơn Dương làm giàu từ vốn vay chính sách
- » Góp phần cải thiện chất lượng vệ sinh, môi trường
- » Như Xuân thoát nghèo bền vững
- » Kim Bôi với công tác giảm nghèo
- » Người dân thoát nghèo nhờ vốn vay chính sách
- » Vĩnh Phúc chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn