Tăng cường công tác giám sát hoạt động tín dụng chính sách xã hội
Đưa Chỉ thị của Đảng đi sâu vào cuộc sống
Tham luân tại Hội thảo với tiêu đề “Tăng cường công tác giám sát hoạt động tín dụng chính sách xã hội nhằm thực hiện hiệu quả Chỉ thị 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư”, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An nhấn mạnh các quy định của Đảng về công tác giám sát đã được thể hiện rất rõ và yêu cầu là mọi chủ trương, chính sách lớn của Đảng, các giải pháp lớn của Đảng đều phải được giám sát, kiểm tra thường xuyên để uốn nắn kịp thời để đảm bảo các chủ trương, chính sách của Đảng đi đúng hướng, thực hiện đúng mục tiêu, nhiệm vụ được đặt ra.
Trong quy định thi hành Điều lệ Đảng thì Đảng nêu rõ là giám sát của Đảng là các tổ chức Đảng phải quan sát, theo dõi, nắm bắt, xem xét, đánh giá, kết luận hoạt động nhằm kịp thời nhắc nhở để cấp ủy, tổ chức Đảng cấp dưới, các đảng viên được chấp hành nghiêm cương lĩnh chính trị, điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước khắc phục, sửa chữa, hạn chế, khuyết điểm kịp thời.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ban Kinh tế Trung ương đã thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40-CT/TW). Nội dung giám sát tập trung vào các nhiệm vụ Ban Bí thư đề ra trong Chỉ thị số 40-CT/TW. Cụ thể là Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt các nhiệm vụ tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội; Nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội; Tập trung nguồn lực và hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội; Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của NHCSXH.
Qua hoạt động giám sát thường xuyên và kết quả sơ kết 5 năm triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW cho thấy công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện việc tăng cường tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, số lượt người được vay vốn tín dụng càng nhiều, chất lượng tín dụng được nâng cao, hạn chế nạn cho vay nặng lãi, tín dụng đen. Các Đảng đoàn, Ban cán sự Đảng, Đảng ủy Trung ương và các tỉnh, thành ủy đã ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận 06-KL/TW đối với việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn tín dụng chính sách cực. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm. Quy chế quản lý tài chính của NHCSXH quy định về quản lý và sử dụng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp đã quan tâm ưu tiên dành nguồn lực ngày càng tăng để thực hiện tín dụng chính sách xã hội.
Tính đến ngày 30/6/2023, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 318.278 tỷ đồng, gấp 2,36 lần so với cuối năm 2014, tức là thời điểm ban hành Chỉ thị 40. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 10,4%, trong đó nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách các địa phương đạt 34.527 tỷ đồng, chiếm 10,8% tổng nguồn vốn của NHCSXH. Công tác quản lý nguồn vốn ngày càng được quan tâm. Việc điều tra, rà soát, xác định bổ sung đối tượng vay vốn tín dụng chính sách được thực hiện thường xuyên, cơ bản, kịp thời, đúng đối tượng theo quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn, xử lý nợ quá hạn ngày càng được chú trọng, đặc biệt là những nơi có chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao. Hoạt động phối hợp giữa NHCSXH, chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội trong quản lý nguồn vốn tín dụng chính sách ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, chất lượng ủy thác ngày càng được nâng lên, đặc biệt là phát huy được vai trò của tổ tiết kiệm và vay vốn trong việc quản lý nguồn vốn và huy động tiền gửi tiết kiệm. Các tổ viên của các tổ về sử dụng nguồn vốn tín dụng thì ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng chính sách. Nhiều mô hình sử dụng vốn hiệu quả được xây dựng và nhân rộng.
Đến ngày 30/6/2023, tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt 304.431 tỷ đồng, tăng 174.974 tỷ đồng so với cuối năm 2014 có hơn 6,6 triệu hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ; tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 10% và trong 9 năm thực hiện Chỉ thị số 40, tổng doanh số cho vay đạt 605.167 tỷ đồng. Đây là những kết quả rất cụ thể việc thực hiện triển khai tín dụng chính sách xã hội. Vốn tín dụng chính sách được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước và trong đó thì tập trung ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, huyện đảo, xã đảo, vùng bãi ngang ven biển.
Trong giai đoạn thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW vừa qua, nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội đã góp phần thu hút, tạo việc làm cho gần 3,3 triệu lao động, trong đó 42.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài giúp cho 514 nghìn học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập xây dựng gần 11,6 triệu công trình nước sạch, công trình vệ sinh xây dựng gần 139 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo ổn định cuộc sống và trên 38 nghìn căn nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp. “Đây là kết quả rất rõ ràng của việc thực hiện tín dụng chính sách xã hội theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ mà Chỉ thị số 40 đặt ra”, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An đánh giá cao.
Qua giám sát thực tế, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng thẳng thắn chỉ ra một số hạn chế khó khăn trong quá trình triển khai tín dụng chính sách xã hội. Cụ thể, chính sách tín dụng chưa tính đến các đối tượng có nhu cầu vay vốn ở một số chương trình tín dụng. Chính sách có thời hạn cho vay, mức cho vay chưa phù hợp với thực tế. Chu kỳ phát triển của một số cây trồng, vật nuôi thì dài ngày nhưng lại cho vay ngắn hạn.
Bên cạnh đó, nguồn vốn có thời hạn dài trên 5 năm chiếm 41,8%, nguồn vốn ngắn hạn chiếm 58,2%, nguồn vốn do NHNN cấp chiếm tỷ trọng thấp (14,3%), tức là ngân sách Nhà nước cấp cho tín dụng chính sách chưa đạt so với nhu cầu. Nguồn vốn từ phát hành trái phiếu NHCSXH được Chính phủ bảo lãnh một số năm gần đây tối đa chỉ được phát hành bằng nghĩa vụ trả nợ thì trái phiếu đến hạn. Điều này gây khó khăn cho cho phát triển của tín dụng chính sách ở cấp Trung ương, NHCSXH không tận dụng được cơ hội để huy động thêm nguồn vốn giá rẻ, ảnh hưởng đến việc cân đối nguồn vốn cho vay, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương tại một số tỉnh còn hạn chế, thấp hơn bình quân chung trong cả nước.
Hạn chế nữa là cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự hợp lý và đảm bảo tính bền vững. Nguồn vốn tín dụng chính sách chủ yếu sử dụng cho trung và dài hạn chiếm tới 99,4% với một số chương trình có thời hạn vay dài tối đa đến 25 năm thì có khó khăn, nguồn vốn giải quyết cho vay để giải quyết việc làm thì chưa đáp ứng yêu cầu. Quỹ quốc gia giải quyết việc làm hiện nay đang được phân bổ một cách không tập trung, mỗi nơi một chút và khi điều hành quỹ giải quyết việc làm này thì ở mỗi nơi thực hiện một cách khác nhau. Cho nên việc hỗ trợ để cho người có nhu cầu vay để để giải quyết việc làm còn khó khăn. Việc phối hợp lồng ghép các chương trình, các dự án phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với các hoạt động tín dụng chính sách xã hội ở một số nơi thì chưa thực sự gắn kết, chưa đồng bộ và hiệu quả chưa cao.
Cần phát huy tối đa vai trò của công tác giám sát
Qua thực tiễn giám sát, Ban Kinh tế Trung ương đồng tình quan điểm NHCSXH đã trải qua hai giai đoạn.
Giai đoạn một là tập trung cho việc giảm nghèo. Tức là, tập trung mục tiêu thiên niên kỷ là giảm nghèo và trong thời gian vừa qua dưới sự lãnh đạo của Đảng thì công tác giảm nghèo đã đạt kết quả tích cực, được thế giới đánh giá cao.
Giai đoạn hai là giai đoạn thực hiện tín dụng chính sách xã hội với 3 mục tiêu: Tạo việc làm giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, đảm bảo trật tự an ninh chính trị và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao, theo đó đối tượng người nghèo, đối tượng khó khăn nó sẽ giảm dần. Do đó, tín dụng chính sách không chỉ tập tập trung vào đối tượng người nghèo mà phải hướng đến cả đối tượng trung bình để đẩy người trung bình trở thành khá dài. Có như vậy mở rộng đối tượng của tín dụng chính sách mới tốt và nguồn lực cho tín dụng chính sách sẽ thực sự đi theo chủ trương của Đảng.
“Có thể thấy, với vị trí, vai trò là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế của Nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra cho hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng chính sách xã hội nói riêng, nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi cần có những bước đổi mới, hoàn thiện mạnh mẽ hơn với sự vào cuộc tích cực hơn nữa của cả hệ thống chính trị”, Phó Trưởng Ban kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An đề nghị.
Để tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả hơn nữa tín dụng chính sách xã hội theo Chỉ thị số 40-CT/TW, Kết luận số 06-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị định 78/2002/NĐ-CP của Chính phủ trong thời gian tới, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đỗ Ngọc An nêu lên một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ giám sát của Ban Kinh tế Trung ương. Đó là các cơ quan tham mưu, giúp việc của các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền về vai trò của công tác giám sát đối với việc thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, trong đó có vấn đề thực hiện tín dụng chính sách.
Cần phát huy tối đa trách nhiệm, năng lực của đơn vị chủ trì giám sát, đồng thời tăng cường phối hợp với các chủ thể giám sát trong các cơ quan và phát huy vai trò của Quốc hội, của các cơ quan Chính phủ, các cơ quan tham mưu cho các cấp ủy Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Cần phải làm thế nào để công tác giám sát, kiểm tra thường xuyên của các cấp ủy Đảng, của các cơ quan tham mưu, giúp việc cho Đảng phải có trách nhiệm, có trọng lượng trong việc uốn nắn thực hiện các chủ trương của Đảng. Đi đúng hướng thì chúng ta mới đạt kết quả. Việc giám sát phải được thực hiện theo hình thức gián tiếp và trực tiếp, kết hợp giữa nghiên cứu báo cáo, tài liệu với làm việc trực tiếp và đối tượng giám sát để đảm bảo nguyên tắc khách quan, phản ánh đúng thực tế.
Thuỳ Trang
Các tin bài khác
- » Chỉ thị số 40-CT/TW: Kết nối sức mạnh của ý Đảng - lòng dân
- » Đại hội Công đoàn Ngân hàng Việt Nam lần thứ VII: Đổi mới - Dân chủ - Đoàn kết - Phát triển
- » Phiên thứ nhất Đại hội Công đoàn Ngân hàng Việt Nam lần thứ VII, nhiệm kỳ 2023 - 2028
- » Tăng cường vai trò giám sát, phản biệt xã hội của MTTQ Việt Nam đối với các hoạt động tín dụng chính sách xã hội
- » Thừa Thiên - Huế cần tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội
- » Tín dụng chính sách xã hội giúp A Lưới sớm thoát khỏi huyện nghèo cả nước
- » Phát biểu của Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương tại Hội thảo khoa học cấp Quốc gia: “Tín dụng chính sách xã hội với vấn đề thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội”
- » Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Tín dụng chính sách xã hội với vấn đề thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội”
- » Sắp diễn ra Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Tín dụng chính sách xã hội với vấn đề thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội”
- » Tổng Giám đốc NHCSXH làm việc tại huyện Bảo Thắng